NGUYỄN
THỊ KHÁNH MINH
ĐẶNG THƠ THƠ-
RONG
CHƠI NGOÀI THỜI GIAN, CÕI VẠN HOA CỦA SÁNG TẠO
Một
lần, khi bước lên tam cấp bằng gạch tàu xưa của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô Sài
Gòn, tôi cảm thấy rất sống động, bóng ba tôi trong bộ quần áo màu mỡ gà của ngày
ông ra đi, cầm một cây gậy tre đứng dưới bóng cây, tôi nghe rõ như hồi tôi 19
tuổi, ba sẽ làm một hòn non bộ dưới gốc cây này, và tôi đã viết, ở đó,
câu thơ … hãy bước lên bậc-tam-cấp-thời-gian,
quá khứ-hôm nay-và
ngày mai. Và chọn một giấc mơ … đó là điều gắn bó tôi với
ba bậc thềm tam cấp. Không phải vì cái ý nghĩa của ba chủ thể Trời – Đất – Con
Người trong tri giác tam sinh, để nhắc nhở vô thường Sinh Lão Bệnh Tử, mà tôi cảm
giác ba bậc thềm ấy như một dòng thời gian hư ảo. Khi bước lên nó như thể bước
vào ngưỡng của giấc mơ. Nó là kinh nghiệm tôi có được khi cảm giác ấy được lặp
đi lặp lại, thành một quy ước vô thức mà tôi cho rằng chỉ những ai sống thường
trực trong nó mới cảm biết. Nó lại rơi vào khái niệm thời gian phi tuyến tính
mà triết gia John William Dunne đề cập đến trong một nghiên cứu của ông và kết
luận rằng, “Giấc Mơ là một minh chứng cho quan điểm trục thời gian đa chiều đồng
hiện diện.” Tôi cảm thấy tôi có cái gì đó hơi khác -cái khác mơ hồ- rằng ở tôi,
giấc mơ là khởi đầu vụ mùa, ở J.W.Dunne giấc mơ là thu hoạch, dù ngẫu nhiên cả
hai đều minh chứng cho sự không trật tự cùng xuất hiện của thời gian. Tôi thấy
mình rất dễ để lọt vào và rất ổn thỏa sống trong cái lộn xộn đó. 
Cũng
tâm thái ấy, tôi có được khi đọc Phòng Triển Lãm Mùa Đông của nhà văn Đặng Thơ
Thơ, và sau đó là xoay sở cho lọt vào những con chữ mang đầy ý nghĩa bức phá hiện
thực của tập truyện này.
Tôi
đọc lần này, cách lần trước 15 năm. Vẫn cảm được cái huyễn ảo, huyền ảo của
phong khí* ấy, nhưng khác trước, lần này không những tôi Đọc, mà tôi Sống cùng
thảy những tầng lớp ngữ nghĩa, ngữ cảnh của nhà văn. Một lần tôi chủ động, một
lần tôi bị động. 
Chủ
động cảm xúc của mình tiếp nhận một cách chủ quan. 
Bị động
vì sự quyến rũ của những cánh cửa suy tưởng của nhà văn mở ra thách thức. Bị động
nên mất phương hướng trong miệt mài tìm kiếm, và tôi bị lạc trong cái quy ước
tâm linh của chính tôi. Hóa ra trong cái chập chùng tôi tưởng là phi trình tự vẫn
theo một xoay chuyển có lập trình của vô thức. Cõi giấc mơ hiện ra trong sự
không định vị Không gian và Thời gian, ở Đặng Thơ Thơ, ngoài vai minh chứng cho
cái phi tuyến tính của thời gian- còn cho cả cái linh hoạt của không gian. Ngữ
cảnh Thơ Thơ xoay chuyển mọi ngõ ngách. ký ức của quá khứ, ký ức của hiện tại
và ký ức của tương lai, nó đồng loạt sống dậy, khi nhà văn cần đến, lội ngược
dòng cái nhìn cố hữu, giải mã ổn thỏa phi thực- thực, đem lại hiệu quả tái cấu
trúc hiện thực với những tầng lớp không- thời- gian trong từng cung bậc của cảm
nhận tương ứng.
Tôi
tự hỏi,
Có
phải hiện thực được thấu thị bởi cụ thể và siêu thực mà cấu trúc truyện có nền
của hiện thực huyền ảo**? Chẳng hạn như truyện Vườn Lan.
Có
phải hiện thực được nhìn từ cặp ảo-thực mà cấu trúc dàn dựng truyện có nét hiện
thực huyễn ảo***, truyện Phòng Triển Lãm Mùa Đông là một điển hình.
Sự phi
tuyến của thời gian và sự biến dịch của không gian cái nào là nhân cái nào là
quả, để Đặng Thơ Thơ chớp được tất cả những sự kiện đã-đang-sẽ -xảy-ra-đồng-thời,
dưới một giọng văn vừa điềm tĩnh vừa hàm xúc nội tâm?
Và
tưởng là đầy triết lý tính nhưng lại toát được cái thơ mộng hồn nhiên của một
tâm hồn nhạy cảm tinh tế, khiến những nhân vật phụ như thời tiết hoa cỏ trái
cây mưa nắng… trở thành nhân vật chính, và minh chứng cho sự có mặt của Tôi-nhà
văn- với hiện tại.
Sự tự
hỏi trên đã dẫn tôi đi đến những cảm nhận trong hai tiểu đoạn sau. Tôi có chủ
quan không khi nói rằng, những cảm nhận ấy là phản xạ của cảm xúc những ai khi
đi vào cõi văn chương Đặng Thơ Thơ?
1.
Phải
nói, để lọt được vào “phong khí” của Đặng Thơ Thơ không phải dễ, nếu kể lại
rành mạch nó với tính cách học thuật thì không đúng hẳn, bởi cái hồn tinh túy,
kỳ ảo của ẩn dụ có thể bạn sẽ bỏ qua, như tôi trong lần đọc đầu tiên, chỉ cảm
nhận được hiện thực ấy trên một bề phẳng. Hơn nữa, nếu chỉ nghiêng về học thuật,
bạn sẽ bối rối bởi cách Đặng Thơ Thơ phá vỡ những cảm nhận thông thường của suy
tưởng và hành văn. 
Bạn
dùng con mắt nào, cảm thức nào để nhìn ra cái lệch- lạc- đúng trong tranh
Picasso? 
Bạn
sẽ có kinh nghiệm như tôi, mất mình để đi theo mọi phóng kích của các góc khuất
của sự kiện và tâm lý con người để lôi ra và chấp nhận những phi lý như là khả
thể trong văn chương Đặng Thơ Thơ? 
Tôi phải
dùng rất nhiều “tôi” để lọt vào bao vỏ không gian và mấy lớp thời gian ở Một
Nơi Để Viết:  
Tất
cả công việc viết lách của tôi diễn ra trong căn phòng đó. Người ta không biết
đến nó, ngoài đời không có căn phòng nào như thế. Tuy chỉ là nơi tưởng tượng,
nhưng nó rất thật đối với tôi, thật hơn tất cả những căn phòng tôi đã ở, có lẽ
còn thật hơn tất cả những gì có thật trên đời. 
…
Phòng hơi tối, ánh sáng như trong những hình chụp nghệ thuật, luôn luôn chiếu từ
một góc nào đó ra, đi từ đậm qua nhạt, rồi loãng vào một vùng không khí lơ lửng
giữa phòng. Đồ đạc thì hầu như cố định, hình dáng không quá rõ rệt làm cho thô
thiển, mỗi vật gắn với một tên người nào đó, gây một cảm giác thân mật. Cái ghế
ngựa vẫn đu đưa nhịp nhàng, loáng thoáng hình ảnh một người già đọc báo với cây
kiếng lúp. Trong lò sưởi có ngọn lửa mẹ đốt từ năm lên chín tuổi. Bình hoa trên
bàn từ lần sinh nhật thứ mười ba, có những búp màu hường nhạt như phấn tiên, tiết
ra một mùi hương ngọt ngào. Trong lò sưởi có ngọn lửa mẹ đốt từ năm lên chín tuổi…
(Một Nơi Để Viết)
Một
căn phòng được lôi từ một điểm nhỏ của chữ, rồi phình ra, rồi tồn tại, định vị
một chỗ, nơi đó có hiện tại một người đang viết, một Tôi hiện hữu, sống, viết,
song song với thời gian sống động của các nhân vật, nơi chốn của
riêng từng nhân vật và người. Họ đến họ đi tự do trong cảnh chữ, không gian thoắt
ẩn thoắt hiện, tất cả cùng linh động và bất động, như những khái niệm được chọn
lựa để thể hiện trong tình huống thích hợp. Chẳng hạn, Sự trở về của quá khứ
vào hiện tại trong một không gian ảo: … Trong lò sưởi có ngọn lửa mẹ đốt từ
năm lên chín tuổi, vẫn-đang cháy. Bình hoa trên bàn từ lần sinh nhật thứ
mười ba, vẫn-đang tiết ra một mùi hương ngọt ngào… Cái ghế ngựa -vẫn-
đu đưa nhịp nhàng chở một hình ảnh đã xa -người già đọc báo với cây kiếng
lúp-. Tất cả được phân mảnh rồi ghép lại tự nhiên vào hiện tại như một ăn
khớp hoàn hảo làm không khí truyện ngào ngạt hấp lực. 
Bước
bốn mùa của cánh chim bay ẩn hiện vào bước người trên con phố lời ca khúc, rồi
tất cả biến mất vào sương đục, hiện tại nào trong không gian ảo này qua cái
rùng mình -Đặng Thơ Thơ-?
…Đường
phố đã đổi tên mà tôi không hay, mỗi con đường hóa thành một ca khúc của anh.
Trong một góc công viên, chợt rực lên một vùng còn nắng, khác hẳn nơi chúng tôi
đứng, những cánh chim bay không mỏi mệt, bay từ nắng qua mưa, từ thu vào hạ, từ
xuân đi ngược về đông. Cuối cùng một đám sương đục bay lùa đến, không còn nhìn
thấy gì nữa. Tôi rùng mình nghĩ, mình cũng có thể bị cuốn đi như thế, vào trong
mịt mù… (Lời Chia Tay Cuối)
… “Lại
mùa xuân...”, tôi nghe tiếng mình vang vang từ một tiềm thức. Tôi trở lại căn
phòng ấy vào đúng mùa xuân… 
Và
điều gì xảy ra? Căn phòng ký ức bỗng tượng hình chiếm một chỗ trong căn phòng
nơi Tôi vừa trở lại, kéo theo những hình ảnh đang bất động hồi sinh, và Bà, và
những gì thuộc về lúc đó… Nhân chứng khung cửa sổ, nơi chứa đựng mọi hình ảnh
phóng chiếu của nội tâm Bà và cháu. 
Nhưng
khung cửa màu xanh ấy vẫn cứ lung linh, vì nó là cửa kính, trong suốt – phản
chiếu – soi rọi. Nó tô màu mọi hình ảnh bên ngoài, nó thu hút mọi năng lượng của
tâm thức. … (Mùa Xuân Trắng) 
 
Nó tồn
tại bởi những ánh mắt nhìn qua nó, bởi sự vĩnh hằng của linh hồn trắng hoa lê
và vô thường của cánh hoa rơi. Ở đây, tác giả cho ta cảm nhận được nỗi
mong manh lấp lóe trong thường hằng.
…Tôi
khó lòng nhận ra ngôi nhà của bà ngày nào nữa, cho tới khi bất chợt nhìn ra cửa
sổ… Cây lê cổ thụ đang thả đầy hoa trắng ngoài kia, màu trắng non mong manh và
thanh thoát cứ lay động không ngừng, tưởng chừng như gió đang thổi lên từ đó,
không có gì thay đổi cả, dù đây là lần đầu tôi phải khóc khi nhìn thấy nó…
…
Khung cửa giờ đã lấy lại tất cả những gì từng thuộc về nó, ánh sáng của những
buổi chiều, không gian nó đã từng phản chiếu, những ký ức hắt hiu, và cả đôi mắt
đã từng nhìn ngắm nó… (Mùa Xuân Trắng) Khung cửa sổ là điểm
duy nhất gặp gỡ của không gian và thời gian. Sẩy một nhịp để gặp nhau, nhịp sẩy
ấy là tâm cảnh con người. Như vậy, chẳng thể tách được nhân quả. Nó là một cặp,
cái phi trình tự của thời gian nối kết những mảnh không gian rời. 
CHO
TA BƯỚC VÀO KỲ ẢO CỦA TIÊN TRI VÀ NHỮNG GIẤC MƠ
Khi
đọc Vườn Lan, tôi đã từng nghĩ, những tâm cảnh dồn dập xảy đến có thể nào tích
tụ thành lớp lớp nơi tiềm thức, rồi qua sàng lọc bất ngờ nào đó của một thứ
giác quan chưa được biết đến, lóe sáng cái nhìn gở, không, một trực giác mang
khả năng huyền bí của tiên tri:
…
người ta vẫn nói đôi mắt người sắp đi xa mang hình ảnh nơi họ sẽ tới. Tôi muốn
tìm trong mắt cô bóng dáng con thuyền trên mặt biển xanh ngắt, hoặc đường phố rộn
ràng đèn sáng như sao. Nhưng không hiểu sao chỉ thấy những cánh đồng hoang vắng
ngút ngàn; hình ảnh một đoàn tàu lửa đập vào đầu tôi, băng qua những bụi lau chập
chùng vô tận…
… căn
phòng này, những cuốn sách này, tấm bản đồ này, và chuyến đi chấm dứt ở một nơi
không du khách nào muốn tới. Cũng chẳng có lối về.  (Vườn Lan)
Cộng
với cái nhìn tiên tri là sự cộng hưởng sinh tử không lý giải được giữa lan
Vanda và nhân vật Tường, một sợi dây nối số mệnh của hoa và người chăm sóc nó,
điều đó là gì nếu không phải là một thứ trực giác về siêu hình mà Đặng Thơ Thơ
cho chúng ta thấy tác giả rất tin vào sự có mặt của chúng. 
… Mới
sáng nay chúng còn mọng nước và tươi mát. Bây giờ cánh hoa mỏng tanh, tôi nhìn
được những đường gân cong quắt. Những đóa hoa bị hút kiệt sinh lực. Chúng khô
héo và tàn tạ. Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi chứng kiến một sự kiện lạ lùng
như vậy. …Tôi ngồi suốt đêm với những bông hoa tàn, và một hồ sơ hoa rỗng. Ai
đó đã xóa sạch nội dung. File Vanda 2001 chỉ còn là một cái tên. Tôi nhớ ra chú
chưa kịp đặt tên cho cây lan này, như một điềm báo trước… (Vườn Lan)
Với
cái nhìn gở tiên báo về tương lai, - hình ảnh đoàn tầu và cánh đồng hoang vắng-
đúng như trong hành trình đi đến cõi chết của nhân vật Tường, làm Vườn Lan mang
không khí Hiện Thực Huyền Ảo, điều không lý giải được về cái nhìn tiên tri tham
dự vào đời sống nhân vật được xem như một tất yếu của sự vượt ngoài lý trí.
Còn
nữa. Người đọc thử nối kết giấc mơ ở truyện Ba Sẽ Về Ngày Mai. Mọi thời điểm,
quá khứ, hiện tại và tương lai, đều “đang xảy ra” đồng thời trong giấc mơ, có
thể nói, không phải tất cả, nhưng sau đây là hai trích đoạn, minh chứng cho lý
thuyết thời gian và giấc mơ tiên tri của John William Dunne:
 Giấc mơ trong Ba Sẽ Về Ngày Mai
… Giấc
mơ đám tang cứ diễn ra nhiều lần, mỗi lần nó nghĩ ra một cách mới để hành hạ
tôi. Càng lúc nó càng đến gần tôi hơn. Lần chót nó đuổi theo tôi ráo riết. Tôi
nghe đoàn người áo trắng nói với nhau: Bắt lấy nó nhốt vào cỗ áo! Bắt lấy nó nhốt
vào cỗ áo! Tôi hiểu ngay trong áo quan không có người nằm, và họ muốn giam tôi
vào đó. Tôi chạy như điên từ phòng này qua phòng khác, từ dưới nhà phóng lên lầu.
Đám ma đuổi theo tôi sát gót. Và cuối cùng tôi lọt vào một căn phòng, trên tường
treo đầy những tấm gương thật lớn, khung gỗ mun, có chạm trổ hoa văn. 
Và
tôi nhìn thấy ba. 
Ba
đã mặc xong bộ complet xám và đang đứng trước gương thắt cà vạt. Mặt ba nghiêm
nghị và điềm tĩnh. Một vẻ bình thản vô bờ toát ra từ mắt môi ba. Tự dưng tôi thấy
nỗi sợ của mình là vô lý, hết sức vô lý. Ba nhìn tôi mỉm cười, không nói gì, chỉ
phác một dấu hiệu mơ hồ. Cửa phòng tự động mở ra. Đám tang bước vào phòng, đột
nhiên họ trở nên im lặng khác thường. Họ từ từ tiến về phía bức tường, họ bước
qua khung gỗ mun, họ đi xuyên suốt qua gương như băng một cánh cửa. Đó là lần đầu
tiên tôi biết rằng tấm gương ấy có thể mở ra một con đường mới. Đám tang đi sâu
hút vào trong, rồi biến mất. Sau giấc mơ đó, me bị bịnh nặng. Mặt me trắng như
tờ giấy lúc me gọi chúng tôi vào phòng. Tôi nhớ giọng nói run rẩy của me: “Các
con ơi, ba các con đã mất rồi!” (Ba Sẽ Về Ngày Mai)
Và
giấc mơ trong Phòng Triển Lãm Mùa Đông:
… Trong
giấc ngủ tôi thấy mình nắm tay chị đi men theo hồ. Chị đứng sát bờ, thả một mảnh
lụa trắng toát xuống hồ nước mờ đục. “Chị làm gì đó?”. Tiếng chị trả lời lẫn
trong tiếng gió ào ào “Chờ một chút đi cho nước thấm vào khăn.” “Chi vậy chị?”
“À, chị sẽ vẽ một bức tranh màu nước hồ, màu này không ai pha được, phải lấy từ
chính nước hồ này”. Mảnh lụa trắng bập bềnh giữa một dòng lá khô hình dáng như
những con mắt mòn mỏi. Chị nghiêng mình, nghiêng nữa, cánh tay xoãi ra, mái tóc
dài rũ rượi trên nước thành những cọng rong đen nhánh nổi lềnh bềnh. Mảnh lụa
trôi ra giữa hồ, tôi hét lên: “Chị, coi chừng, coi chừng!” Tiếng tôi bị gió át
đi ngay. Tôi đạp những bước nhẹ hẫng vào khoảng không trước mặt, tôi gào lên,
“Coi chừng, coi chừng, coi chừng!!!”. Những luồng gió tàn bạo quất ngược vào mặt,
một bàn tay chặn ngang họng khiến âm thanh nghẽn lại không thành tiếng... “
 Và sau đó: Không ai tìm thấy dấu vết cuối
cùng vào, và những người đi lạc trong sương rồi sẽ tìm ra lối về. Điều này,
chính những cảnh sát địa phương vẫn thường xác nhận. Đã bao năm rồi, tôi chờ đợi
một con đường nhỏ bên kia hồ - con đường đã hiện lên trong đôi mắt chị.  
Không
có kết thúc nào đưa đến câu trả lời rõ ràng, chỉ là, sự chờ đợi một con đường
xuất hiện của người ở lại, con đường đưa chị biến mất trong cõi sáng tạo của
riêng mình…, 
Và
con đường của tôi:
ĐI
QUA NHỮNG CÁI CHẾT MANG NHIỀU BIỂU TƯỢNG VÀ ÁM ẢNH TRONG THỜI GIAN ĐẶNG THƠ THƠ
TÁI LẬP LẠI. 
Cái
chết, cứ nhắm mắt đi và không hề biết nơi mình sẽ đến như Bà trong Mùa Xuân Trắng,
cái chết đến trong sự chờ đợi biết trước như của Mẹ trong Mùa Hè…Từng Đoạn Ngắn,
Cái chết như sự quyến rũ của sáng tạo của nhân vật Chị trong Phòng Triển Lãm
Mùa Đông, cái chết như thể theo đuổi một mục đích vô cùng lãng mạn như của Tường
trong Vườn Lan. Phá vỡ mọi sợ hãi về cái chết. Nó có sức mạnh của một hẹn hò sống
lại. Tôi bị ám ảnh nhiều về cái chết của người mẹ trong cơn bão nhiệt, 
… Khi
đã chìm vào cơn mê choáng nắng người ta không còn thấy nóng nữa. Họ cứ khăng
khăng đòi đến sát mặt trời... Người con cảm thụ được sau cái chết của người
mẹ: Trong trạng thái giữa mê và tỉnh, tôi nhận ra sức sống khủng khiếp đang
bùng nổ khắp nơi… Ở đối cực sống chết, mang vẻ đẹp đau đớn đầy cảm động của
ước muốn phút cuối cùng, “Để yên... cho mẹ ngắm mùa hè... cho mẹ ngửi một
chút mùa hè đi....”  Quá khứ ấy sẽ ở
lại nơi mùi táo chín và mùa hè bất tận trong cây. …trong mùi cỏ mới cắt tôi
nhận ra mùi táo chín. Mùa hè của tôi còn đang ở trên cây… (Mùa Hè…Từng Đoạn
Ngắn)
Đặng
Thơ Thơ xử dụng rất hiệu quả, sự đan xen thời gian không gian nơi tháng ngày Bà
nằm bệnh, nơi cái chết của Bà, hơi thở của bà tan vào nơi không màu- không
ánh sáng- không bóng cây, không tiếng chim- không nắng- không hình ảnh, không
thời gian, không còn gì hết… nhưng người cháu vẫn nghe mùa xuân đang ở đó đập
cùng bà nhịp vào sinh tử: … bà tôi đã chết trong căn phòng đó, mùa xuân sẽ
luôn luôn còn đó... (Mùa Xuân Trắng)
 
Cũng
với thủ pháp đem huyễn ảo làm linh hồn cho hiện thực, ta có được ở Phòng Triển
Lãm Mùa Đông một cách đọc hỗ tương, Ta đọc và ta đi vào với nhân vật trong cách
thế lắp ráp, trực diện. Nhân vật ở đó, cảnh tượng ở đó ẩn hiện bất ngờ không
theo chiều suy tưởng làm đôi khi ta va phải một đụng chạm ngoài ý muốn. Không
có một trật tự nào cả để dẫn đường cho lớp lang suy nghĩ. Vì không được dự báo
trước nên cảm xúc lạ lẫm đã được học cách để cảm nhận. 
Sự
song hành của tưởng tượng, của mê hoặc cùng với những tầng lớp không gian hiện
ra theo cảm xúc của hai chị em trong Phòng Triển Lãm Mùa Đông, đánh lạc hướng
người đọc, phá vỡ những cách hiểu cố hữu về cái đẹp, về sự tương phản, về sự
đam mê, về sáng tạo, cả về cái chết, đánh bật tất cả khỏi biên giới của sự thật.
Đây
là những cú rơi của tôi khi nghe tiếng va chạm vang dội của thế giới nội tâm và
thế giới bên ngoài. Sau khi đọc không hiểu tôi đã biết cách chạm đất chưa…
…Chị
đứng đầu giường, đèn trong phòng đã tắt, không khí trong phòng lạnh buốt. Không
hiểu chị đã mở cửa sổ từ lúc nào, màn cửa bay phần phật, tôi nhận ra đó chính
là tiếng gió tôi nghe trong mơ. “Đi xuống hồ chơi không?” chị rủ. Tôi dụi mắt,
cố tìm khuôn mặt chị trong bóng tối, nhủ thầm đây là thực, không phải mơ…
Chị
nắm chặt cánh tay tôi, tay chị lạnh như nước đá và đẫm mồ hôi: “Dậy ra coi bức
tranh của chị đi!” giọng chị khẩn khoản một cách bất thường. “Em coi rồi, mới
coi hồi nãy mà,” cách từ chối của tôi cũng đầy vẻ bất thường, có thể là tôi
đang sợ một điều gì đó từ bức tranh của chị. Giọng chị tha thiết: “Bây giờ khác
rồi. Kỳ lắm! Bị sương che hết rồi. Không còn thấy gì nữa.” Cơn sợ lại ập đến,
tôi ôm chặt lấy chị muốn thét lên ghê quá, ghê quá nhưng chị đã bịt miệng trước
khi tôi kịp la lên, rồi chị thì thầm: “Đừng sợ, đừng sợ. Trên bức tranh giờ chỉ
có một con đường thôi.” “Đường nào? Em không nhớ?” “Chị cũng không nhớ. Nhưng
có thể mình đã thấy nó rồi.” Trong ký ức mù mờ của tôi, chung quanh hồ không có
một con đường nào cả, chỉ toàn là cỏ gai cao quá đầu gối lẫn vào cây cối bìa rừng:
“Nhưng mà chị có vẽ vào tranh chưa?” “Chị cũng không chắc”, chị nói giọng ngập
ngừng, “Em nhớ lại coi. Làm sao tự nhiên nó lại hiện ra được?” Tôi rùng mình,
kéo chăn tận cổ. Gió càng lúc càng dữ, hơi nước ùa vào từng khối ngập phòng,
tôi chỉ còn thấy màu áo trắng nhờ nhờ của chị di động như trong một giấc mơ lạ…
Tôi
vùng dậy, quờ quạng trong bóng tối dày đặc, nhìn quanh quất cố tìm ra màu áo trắng
của chị. Hình như chị đang đứng cạnh giá vẽ. Tôi vội vàng chộp lấy tay chị.
Nhưng không có bàn tay nào cả. Chỉ là cái áo khoác chị vẫn mặc khi làm việc, mắc
hờ lên giá, cánh tay áo đu đưa trong gió…
Chị
đam mê, quyết liệt đeo đuổi, thao thức sáng tạo, như đang thực hiện phép tu khổ
hạnh. Tôi không chắc sự đối thoại trên có không, hay chỉ là độc thoại của một
trong hai chị em. Có thể là chị, vì quyền năng rủ rê của sáng tạo chỉ có hiệu lực
với chị, đã kéo chị trôi ra ngoài đêm. 
Chị
đi xuyên qua bức tranh mình để tìm một con đường đã biến mất trong sương. Nó
khích động chị đi đến đích của cái đẹp, À, chị sẽ vẽ một bức tranh màu nước
hồ, màu này không ai pha được, phải lấy từ chính nước hồ này”, nhưng sự quyến
rũ kỳ bí của màu xanh thẳm nước hồ, cũng phải chăng chỉ là mảnh xương khô ẩn
sau đóa lan Vanda rêu mà nhân vật Tường say mê săn đuổi? Đó có phải là ẩn ý của
Đặng Thơ Thơ, mọi theo đuổi ước mơ chỉ là vô vọng? Mặt khác, tôi cũng mường tượng
đến ẩn dụ khác, đi đến cùng cũng có nghĩa là tan mình đi, đẩy đến một sáng tạo
khác tái sinh. 
Văn
phong, cấu trúc truyện Phòng Triển Lãm Mùa Đông, tiêu biểu nét mà tôi gọi tên
là Hiện Thực Huyễn Ảo, các yếu tố ảo ảnh, giấc mơ, ký ức, trực giác, chen vào
hiện tại bằng cảm thức ám ảnh nhân vật, tôi dùng Hiện Thực Huyễn Ảo, vì nó dường
như rất đúng với cảm nhận của tôi trước tấm gương thực-huyễn của Phòng Triển
Lãm Mùa Đông.
2.
Từ
trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm.
(Mùa hè…Từng Đoạn Ngắn)
Bạn
dùng con mắt nào, cảm thức nào để nhìn ra cái sắc xanh trong con gió, cái quấn
quýt của con nắng?
Chính
ngọn gió mầu xanh thẫm này đưa tôi vào Phòng Triển Lãm Mùa Đông lần thứ hai. Tôi
không nhớ hết cảm giác đọc của mình cách đây mười lăm năm, nhưng lần này chợt
thấy mình chạm phải đến giật mình, sự tinh tế đầy thơ mộng của một tâm hồn nhạy
cảm và bình đẳng với thiên nhiên, với những vật vô tri, như thế, nơi Đặng Thơ
Thơ. 
Chính
nơi những câu văn đem thiên nhiên vào tâm hồn mình, hay ngược lại, nhìn những
vô tri cử động có ý thức, tôi nhận thấy một Đặng Thơ Thơ như một hành giả đang
trọn vẹn với phút giây đang-là trong dòng thời gian lớp lớp xô đẩy, trong từng
mảnh biến dịch của không gian rời. Đặng Thơ Thơ tung hê khái niệm thời gian, mà
lạ thay, nhà văn đang Ở Đó, và chia động từ của chủ thể tôi ở thì hiện tại. Một
hiện tại chứa đựng vẻ đẹp của miên viễn, vẻ đẹp tâm linh của thiên nhiên, của đồ
vật, nhìn thấy được qua hơi thở của sự sống, chẳng phải nhà văn đã lôi ra cho
chúng ta thấy cái đẹp thường hằng trong mong manh? Đó là một tuệ giác về vô thường.
… Nhưng
chỉ ở đây — ngồi hóng gió dưới bóng cây, nghe tiếng võng kêu rời rạc mơ màng —
tôi mới có thể ném thời gian qua cửa sổ, buông thả tất cả để trở nên lười biếng
như mùa hè. (Mùa Hè…Từng Đoạn Ngắn)
…Nhân
vật của tôi đã đến nhưng còn chùng chình ngoài cửa. Cô gái đang nhoài người khỏi
thành cầu thang nhìn xuống phố, mái tóc chảy dài thành miếng lụa đen buông
thõng trên nền áo đỏ. (Một Nơi Để Viết)
Chi
tiết tỷ dụ mái tóc và miếng lụa đen hiện lên rờ rỡ ánh nhìn sinh động của người
quan sát làm mất mọi ranh giới ảo của không gian, thời gian. Cũng vậy, ở đây:
…Tôi
suy nghĩ về cuộc đối thoại, linh cảm một điều gì đó đang chờ đợi mình. Đồng thời,
cảm giác có một vệt nóng dán lên bàn chân làm tôi nhìn xuống. Thì ra là nắng. Nắng
ở ngạch cửa, đã bò vào tận giữa phòng, luồn dưới bàn viết. Tôi đu đưa chân qua
lại giữa luồng nắng, những sợi nắng không chịu nằm yên trên sàn, chúng bám vào
chân tôi như muốn lôi kéo. Tôi nhìn ra ngoài xem nó đến từ đâu, nắng ở đằng sau
rặng cây sát bao lơn, trong vòm cây gió đang thì thầm, bầy chim đang hát đồng
ca, những âm thanh tạt qua theo luồng gió như đang rủ rê, đang hứa hẹn nhiều điều.
Tôi lại nhìn xuống chân. Nắng vẫn ở đấy, không chịu đi xa nữa, cũng không chịu
lùi bước, quấn quít, chờ đợi và mời gọi. Thế là tôi quyết định. Tôi đứng dậy,
đi theo vạch nắng nối từ chân ra cửa. Cũng có thể những sợi nắng cuốn lấy tôi
kéo băng ra ngoài. Tôi muốn quay lại nhìn, xem nắng có còn nằm lại phía sau
không, hay đang cuốn lại như một tấm thảm..., nhưng không kịp, một mãnh lực đẩy
tôi ra khỏi phòng, tuột theo cầu thang, thả tôi xuống giữa hè phố (Một
Nơi Để Viết)
Sự cảm
thụ nắng biến nắng thành một chủ thể hướng dẫn hành động nhân vật tôi. -Đang-
hưởng thụ trọn vẹn phút giây theo tác động của Nắng (tôi viết hoa vì muốn nhấn
mạnh ý Nắng ở đây là một nhân vật chủ động.) 
Cái vệt nóng dán lên bàn chân, … bò vào tận giữa phòng, luồn dưới bàn
viết … sợi nắng cuốn lấy tôi kéo băng ra ngoài… Và tất nhiên một
cách -không gian phải co dãn theo. Cảm được sự bầu bạn như thế có phải là- Tôi
nhận ra mình đang độc thoại-?  Đúng,
Đặng Thơ Thơ đang nói chuyện một mình, hết mình, với cảnh vật chung quanh, nên
mới có được những chữ xé toạc cảm xúc người đọc đến sững sờ, xin để ý những
hình ảnh và những động từ trong những đoạn văn trích dẫn sau, nó có sức mạnh
thuyết phục, nó là cái sườn hiện tại chống đỡ những bước lang thang của thời
gian, và lấp lánh cho một không gian tưởng chừng sắp biến mất.
… Đồ
đạc hiện hình rõ dần dưới những tia sáng mỏng tanh đâm qua khe cửa… (Phòng
Triển Lãm Mùa Đông)
… những
ngọn gió tinh khiết đùa giỡn những trang giấy của tôi, chúng mang theo những âm
thanh tạp dưới đường, tiếng chim hát đồng ca trong rặng cây sát bao lơn... những
âm thanh tạt qua theo luồng gió như đang rủ rê, đang hứa hẹn nhiều điều … Tiếng
đàn vẽ lại dòng xe trên đường phố chật hẹp, dòng người trầm ngâm trong tiếng
chuông lễ chiều, dòng nắng đã tàn phai, dòng trăng chảy từ trời xuống những vòm
cây, vào tận trong này… Có một nhịp điệu chung giữa dòng nhạc và dòng tư tưởng
liên miên bận rộn đang chạy đuổi trong đầu tôi… (Một Nơi Để Viết)
… Dáng
đứng uể oải cắt lên khung cửa, tạo thành một mảnh tối ngăn giữa khu vườn và màu
đỏ của những quả táo… … Một quả táo được cất giữ rất lâu thành ra rượu
và vẻ đẹp, trải đầy những ý tưởng của Cézanne lên bàn, từ đó mùa hè trở nên bay
bổng thênh thang… … Đó là lúc mẹ ngồi ngoài hiên dưới giàn hoa giấy, vẻ chói
chang của nắng làm gạch lát thềm trông càng thêm nứt nẻ. Những chiếc gối lót vẫn
rực rỡ trên ghế mây cũ mòn, khăn bàn phủ hơi lệch về phía đĩa táo, và con dao gọt
lấp loáng những gợn nắng mỗi lần gió thổi đến từ bụi dừa cuối vườn…
… Tôi
lắc nhẹ ly, uống âm thanh của đá chạm vào thành thủy tinh, áp mặt hứng những bọt
nước lủi sủi sắp vỡ tan thành khí. (Mùa hè… Những Đoạn Ngắn)
Có
phải đấy là tâm trạng hoàn toàn tĩnh mới “uống” được cái “động” của âm thanh?
Cũng
đối cực tĩnh-động ấy, nơi ánh mắt:
…Đôi
mắt chứa đựng quá nhiều điều cùng lúc không sao nắm bắt và ghi nhận kịp. Cũng
có lúc, ánh mắt ấy phản chiếu một tâm hồn khép kín như một khu rừng mịt mùng
không lối, cái nhìn thăm thẳm của một vực sâu, hút tất cả vào lòng không âm hưởng
nào vọng lại. (Phòng Triển Lãm Mùa Đông)
…Tôi
đi theo anh ra đường, linh cảm một điều buồn bã lắm. Một cơn mưa mới đi ngang
qua đây vài khắc trước, và cứ tiếp tục đi trước chúng tôi, rất khó lòng đuổi
theo kịp nó. Phố vào giờ vắng người bỗng nhiên quá rộng, thời khắc trễ nải của
chiều làm bạc màu những đóa hoa bên đường, trên đầu tôi những chiếc lá lung
linh cứ nhỏ đều đều từng giọt. Những giọt nước nặng như thủy ngân, lạnh buốt
chân tóc, kêu coong coong, boong boong, âm sắc trong ngần như một tiếng chuông
xa. 
Chúng
tôi đứng ngoài nhìn vào, những bức tranh trong căn nhà cuối cùng anh ở đã trổ
ra những cánh cửa vòm trời. Gió lật xành xạch những trang nhạc. Về đêm, tường
trong phòng vọng lại những âm vang thu được của ngày – tiếng xôn xao của người,
tiếng ồn ào của ngõ, tiếng lào rào của gió đã lẩn trốn vào đây.... (Lời
Chia Tay Cuối)
  
Từ bốn
góc phòng đồng thanh trổi dậy những dòng nhạc ưu phiền, thì ra tất cả những bài
ca trong bao nhiêu năm tháng đã lưu trữ vĩnh viễn ở đó, trong những vách tường
tưởng là câm lặng. (Lời Chia Tay Cuối)  
Bạn
có thấy khả năng cảm thụ bị kích thích bởi vẻ kỳ ảo của bức tường lưu trữ âm
thanh những bài ca?
KẾT
Văn
phong Đặng Thơ Thơ, thể hiện tính trầm tĩnh, những nhận xét tinh tế mà trữ tình,
những khám phá mới về cảm nhận hiện hữu qua chuyển động không ngừng giữa các đối
cực tĩnh-động, hư-thực, sống-chết, để trình bày một sự kiện xảy ra xuyên không-thời-gian,
một trạng thái tâm lý của nhân vật theo hướng phá vỡ những định kiến.
Cấu
trúc đan xen hư-thực không gian thời gian, những lát cắt ảo khiến người đọc trực
diện với đa dạng của hiện thực cùng lúc những câu hỏi được đặt ra. Và, những nghi
vấn sẽ đẩy việc cảm thụ thêm phong phú. 
Tất
cả, được Thơ Thơ bổ sung đầy hiệu quả với lối viết thích hợp, độc lập với tình
huống, nhân vật của mình. Do có chút kinh nghiệm thất bại, nên tôi có thể nói rằng,
người viết rất khó bóc tách cái tôi của mình khỏi cảm xúc nhân vật. Cách Đặng
Thơ Thơ cho nhân vật của mình tự do thật bản lĩnh, vừa làm chủ quan niệm mình vừa
công nhận quyền của chữ, quyền của ý tưởng khi phản kháng lại mình. Một thủ
pháp, một cấu trúc mà những nhà văn muốn chọn đoạn trường mà đi:
 … Khi có quá nhiều người chui vào thì tôi
phải đi ra, hoặc căn phòng biến đi mang theo tất cả những người trong đó…
…Nếu
anh ta ra đi không phải là giải pháp thì anh ta sẽ quay về. Nếu cô không muốn
làm việc thì cô có thể đi xuống đường phố rong chơi cho đến hết ngày. Còn tôi
thì đã có hẹn với xấp giấy này rồi, tôi phải làm việc, phải đào bới, phải vắt
óc, phải cày ra chữ cho nó. (Một Nơi Để Viết)
… Tôi
luôn tự nhủ thầm, phải bước thật nhẹ nhàng, bởi vì mọi thứ đang yên nghỉ. Dù
không thấy ai, nhưng biết đâu mình đang bị quan sát. Một đôi mắt lấp ló sau
cánh cửa, hoặc một tia nhìn trầm ngâm từ những bức tranh, đều có thể làm tôi
hoang mang giữa thực tại, tưởng tượng, và xúc động… (Phòng Triển Lãm Mùa
Đông)
Tác
động được với người đọc theo chiều hướng ấy của Đặng Thơ Thơ, theo cảm nhận của
tôi, là do nội lực trí tuệ, sự thông minh, được tính lãng mạn thơ mộng trong sâu
thẳm tâm hồn tương tác. 
Lọt
vào cõi văn chương vô cùng quyến rũ ấy, như được rong chơi ngoài thời gian, được
sống theo vạn hoa tái sinh của sáng tạo, vô hình trung, bật ra được ý nghĩa của
sự có mặt và tồn tại của con người trong sự phi lý thường trực của cõi nhân
sinh. 
Đặng
Thơ Thơ, một hiện hữu đầy quả cảm và thơ mộng. 
NTKM
Upland,
tháng 7.2025
*Phong
Khí, chữ của Bùi Vĩnh Phúc, xin cảm ơn “đồng xu mới” của nhà văn BVP được lưu
hành trên thị trường chữ nghĩa, tôi rất đắc ý khi được dùng nó trong bài viết
này.
**
Hiện thực huyền ảo (Magical Realism) trường phái văn chương thế kỷ 20, nở rộ ở
châu Mỹ La Tinh, kết hợp giữa cái đời thường và cái phi thường, coi các hiện tượng
lạ, phép mầu là tự nhiên trong cuộc sống hiện hữu (internet)
***
Hiện thực huyễn ảo (Dreamlike Realism: Đặng Thơ Thơ dịch) Là lối viết kết hợp
Hư-Thực, đa phần là giấc mơ, dùng lăng kính hư ảo để phản chiếu sự kiện đang xảy
ra hay làm nổi bật tâm lý nhân vật.
Khác
với “hiện thực huyền ảo” thường gợi đến các yếu tố siêu nhiên xen vào đời sống
như là điều tất yếu, “hiện thực huyễn ảo” lại đặt trọng tâm vào cảm xúc của con
người nơi mà: vô thức, hay ký ức, giấc mơ, được nhìn với cách không ước lệ,
đóng vai trò tái tạo và nhận định lại hiện thực. 
“Hiện
thực huyễn ảo” là một khái niệm văn chương hoàn toàn cá nhân, được hình thành từ
kinh nghiệm đọc và viết, từ nhu cầu cầu phân biệt rõ ràng hơn giữa các cấp độ của
ảo và thực và tác dụng của phi tuyến tính thời gian và bất định không gian
trong cách xây dựng truyện.
Khái
niệm này, theo cách dùng của tôi, chỉ là một quan điểm, một cách gọi tên đúng bản
chất cảm nhận của mình trước những tác phẩm mà “thực” và “huyễn” song hành như
hai mặt của một tấm gương, như trong truyện của Đặng Thơ Thơ. Đây là lần đầu
tiên tôi dùng khái niệm này để chỉ một trong những thủ pháp văn chương của Nhà
Văn Đặng Thơ Thơ.  
Nguyễn
Thị Khánh Minh