TRUNG THU CỦA TUỔI THƠ
TT-Thái An
Tết Trung Thu rõ ràng là một lễ lớn trong
năm của người Trung Hoa. Nó có từ thời cổ đại, rồi theo chân người
Hán sang Việt Nam trong thời gian 1000 năm Bắc thuộc. Khi người Hán đặt
nền móng cai trị tại Việt Nam thì Âm lịch cùng các lễ hội của họ
cũng được họ đem sang truyền bá cho người Việt. Mục đích của họ là
cố hết sức đồng hóa người Việt thành người Hán y như họ đã làm
đối với các nước Bách Việt.
Nhưng cũng may, người Việt Giao chỉ tuy tiếp thu
hầu như tất cả lễ hội và các phong tục, văn hóa của họ. Nhưng vần
còn là người Việt Nam cho đến ngày nay, năm 2025.
Những năm tôi còn nhỏ, thời tiểu học, khoảng
chừng 2 tuần trước tết trung thu, các tiệm bánh gần chợ Phú Nhuận
đã chuẩn bị làm bánh trung thu. Các tiệm tạp hóa đã bắt đầu bán
lồng đèn cho trẻ em. Họ treo lồng đèn trên các cây sào trước tiệm.
Trẻ con đi ngang qua thế nào cũng đứng lại ngẩng đầu lên ngắm. Sau đó
về nhà xin bố mẹ dắt đi mua lồng đèn.
Thời đó lồng đèn làm bằng thủ công, rất công
phu. Có những nhà chuyên môn làm lồng đèn, họ vuốt tre thành những
cọng thật mỏng cho dễ uốn thành hình các con thú như con thỏ, con
bướm, cá chép, cái bánh ú, ngôi sao, cái tàu bay, cái tàu thủy, xe
hơi. Họ dùng dây kẽm kết gắn các cọng tre theo hình dạng đã định,
rồi dán dấy bóng kính nhiều màu khác nhau lên. Bên trong phải có 1
cái thanh tre để làm chỗ cắm đèn cầy. Sau cùng thì dùng
màu nước vẽ thêm bên ngoài, như vẽ râu cho bướm, vẽ vảy cho cá, vẽ
cửa sổ cho máy bay, tàu thủy, xe hơi và vẽ cánh cho ngôi sao, cho bánh
ú có nhiều góc. Đèn ngôi sao còn phải làm thêm 1 cái khung tròn bao
chung quanh 5 góc, rồi dán thêm giấy có tua chung quanh.
Cũng có những cái đèn xếp họ dùng máy xếp
lại, hình cầu hoặc hình ống dài. Loại đèn này làm bằng giấy
thường, nên khi thắp nến lên sẽ không chiếu sáng như đèn bằng giấy
kính nên rẻ tiền hơn. Tuy nhiên nó cũng được in sẵn những hình ảnh
xinh đẹp, hấp dẫn trẻ con.
Phải công nhận thời xa xưa đó ở Sài Gòn trước
1975 những cái lồng đèn trung thu cho trẻ con chơi vài ngày nhưng làm
quá công phu.
Khu phố tôi ở có gia đình chú Tung, người Quảng
Đông, nói tiếng Việt không rành lắm, làm nghề thợ may. Chú có
vợ cũng người Quảng Đông và có 7-8 đứa con. Vợ chú khi còn khỏe làm
nghề gánh nước mướn, sau này lớn tuổi không gánh nước nổi nữa, chỉ
ở nhà phụ chồng đơm khuy áo, vắt gấu quần tây. Mỗi khi gần đến trung
thu, người ta giao cho chú tre, kẽm, và giấy bóng kính. Thế là bầy
con của chú xúm nhau làm lồng đèn. Ngoại trừ những đứa còn bé xíu
thì không làm được. Phải công nhận gia đình chú đông con nhưng chúng
biết nghe lời cha mẹ. Chẳng khi nào nghe thấy vợ chồng chú quát tháo
hay lớn tiếng vời các con. Các con chú học trường Tàu, nhưng chúng
nói tiếng Việt rất giỏi vì chơi chung với lũ trẻ Việt Nam trong xóm.
Một tuần trước tết Trung Thu, mẹ tôi hay mua
chục cái đèn xếp về treo trên cái dây kẽm trước sân nhà, hễ tối đến
thì ông ngoại tôi thắp nến lên từng cái đèn. Chị em tôi thích ngồi
nhìn dây đèn này, kể cả lũ trẻ trong xóm cũng bu lại trước sân nhà
tôi để nhìn.
Mẹ cũng sắm cho tôi và 3 đứa em trai mỗi đứa
một cái đèn theo như ý chúng tôi. Khoảng 3 hay 4 ngày trước rằm tháng
8, lũ trẻ trong xóm đã rủ nhau đi rước đèn. Người lớn
thừơng hay dặn theo coi chừng làm cháy đèn thì đến Trung Thu hết
chơi. Thế mà cũng có đứa bị cháy đèn vì cho đứa khác mồi
lửa, sơ ý làm cháy. Có tiếng khóc la lên: “Tại mày đó!”
Sau này khỏang những năm 1970, có những người đi
bán dạo loại đèn trung thu làm bằng lon soda. Họ khứa dọc nhiều
đường theo chiều dài cái lon rồi ép đầu lon xuống cho phồng lên chung
quanh trông như trái cầu dẹp hai đầu, đầu trên thì đục bỏ nắp, đầu
dưới làm đáy, gắn đèn cầy. Họ gắn cái lon này trên một trục có 1
cái bánh xe gỗ phía dưới, kết với 1 cái cây dài để cầm đẩy. Khi
trẻ con đẩy đi, cái đèn xoay tròn tỏa ánh sáng xoay theo, trông rất
hay.
Trước Trung Thu vài ngày, tôi thấy người lớn
trong xóm hay bàn tán về thời tiết. Họ lo lắng nói với nhau: “không
biết năm nay rằm Trung Thu có trăng không nhỉ. Tôi nhớ năm ngoái trời
mưa nên chẳng có trăng, lũ trẻ cũng không được rước
đèn”. Người khác thường trả lời: “Hình như năm nào cũng
mưa, nếu không mưa thì cũng âm u. Thỉnh thoảng có được một năm không
có mưa thì lũ trẻ mừng quá. Người lớn cũng mừng vì có trăng để
ngắm”.
Mẹ tôi luôn sắm sẵn một hộp bánh nướng loại
hạt sen hai lòng đỏ. Vì bố mẹ tôi không thích nhân thập cẩm. Và bố
mẹ thích bánh dẻo nên phải có thêm một hộp bánh dẻo mua ở tiệm Bảo
Hiên Rồng Vàng ở đường Võ Di Nguy gần chợ Phú Nhuận. Lúc đó thuộc
về xã Phú Nhuận, quận Tân Bình. Hiệu bánh Bảo Hiên Rồng Vàng là
thương hiệu nổi tiếng miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Bánh dẻo của
họ làm luôn dùng nước hoa bưởi thiên nhiên nên có mùi hoa bưởi nhẹ
nhàng, thanh thoát. Trong khi bánh dẻo bán ở các tiệm bánh của người
Tàu trong các chợ là loại bình dân, luôn có mùi dầu chuối. Bánh
cũng bở, không dẻo lắm. Họ làm bánh dẻo bán cho trẻ con ăn, hình
dạng nhiều ống dài dính nhau. Một gói bánh dẻo này gồm chục cái
ống dài dính liền nhau, ăn đến đâu tách rời từng ống ra đến đó.
Nói đến nước hoa bưởi thiên nhiên, hình như sau
năm 1975 chẳng còn. Vì cửa hàng buôn bán nhỏ bị đóng cửa, người
chuyên làm nước hoa bưởi thiên nhiên thất nghiệp, phải chuyển nghề.
Rồi khi già yếu, chết đi chẳng còn ai tiếp nối. Sau này chánh phủ
cho phép buôn bán lại thì chỉ có loại nước hoa bưởi, hoa nhài (lài)
bằng hóa chất, mùi hăng hắc, không nhẹ nhàng như nước bằng hương hoa
bưởi thiên nhiên.
Những năm Không mưa, ăn cơm tối xong, lũ trẻ trong
xóm chờ cho trời vừa xụp tối vội rủ nhau đi rước đèn. Chị em tôi
cũng chờ có vài đứa đến rủ là xin phép bố mẹ đi theo. Chúng tôi
vừa đi vừa hát bài Chú Cuội “Ánh trăng trắng ngà có cây đa to, có
thằng cuội già ôm một mối mơ…”. Đi hết ra đầu hẽm, rồi lại quay trở
lại, đi qua đi lại khoảng gần 1 giờ là mỏi chân rồi, tự động tan
hàng. Vì còn về nhà ăn bánh Trung Thu.
Tôi nghe mẹ kể ở Hà Nội trước 1954 họ ăn tết
Trung Thu rất bài bản, các nhà ở nội thành hay treo đèn kéo quân.
Trẻ con thì rước đèn. Bánh nướng (người Bắc gọi bánh Trung Thu là
bánh nướng, phân biệt với bánh dẻo) và bánh dẻo được bầy bán ở
các phố bán bánh kẹo. Mùa thu cũng là mùa của trái hồng và cốm
xanh. Vì thế, nhà nào cũng có hồng và cốm để ăn vào dịp này.
Nhưng sau năm 1954, miền Bắc bị đảng cộng sản
cai trị thì cơm trắng không có mà ăn, phải ăn cơm độn khoai, độn sắn.
Thịt thì một gia đình mỗi tháng được phép mua một lạng (100 gr),
đường, dầu, nước mắm, nếp, đậu cũng phải mua theo tem phiếu thì lấy
gì có đường để làm bánh. Tiệm bánh phải đóng cửa, làm gì có bánh
trung thu và bánh dẻo để ăn.
Khi qua Đài Loan năm 1975, trung thu năm đó tôi ngạc
nhiên vì trẻ con ở xứ này không rước đèn. Cũng chẳng thấy nhà nào
treo đèn xếp hay đèn giấy bóng kính. Nghĩa là không có lồng đèn
trung thu. Họa huần lắm có một nhà treo 1 cái đèn kéo quân trước nhà.
Người Đài Loan là người Phước Kiến nhưng sinh
sống ở đảo Đài Loan từ nhiều thế kỷ, trước khi người Hòa Lan đến
chiếm Đài Loan vào thế kỷ 16 và đặt tên cho đảo này là Formosa. Vì
thế, họ vẫn giữ những ngày lễ hội truyền thống của Trung Hoa. Họ
vẫn ăn bánh trung thu. Tiệm bánh bán đủ loại bánh nướng có nhiều
loại nhân khác nhau. Nhưng vỏ bánh nướng của họ dầy và cứng lắm,
không mềm và mỏng như của người Tàu ở Việt Nam làm
đâu. Nhân bánh trung thu của họ không có nhân đậu xanh hay hạt
sen, mà chỉ có nhân đậu đỏ và các loại nhân thập cẩm. Nói chung, về
ẩm thực, người Á Châu chia ra làm hai phe: phe Bắc Á như Hoa, Đại Hàn,
Nhật Bản thích ăn đậu đỏ, có lẽ đất đai của họ trồng đậu đỏ nhiều
hơn. Bánh gì của họ cũng nhân đậu đỏ, như bánh trung thu, bánh rán
(bánh cam), bánh bía, bánh trôi nước, bánh bao chỉ, bánh đậu đỏ
nguyên cây, họ làm thành khối hình chữ nhật lớn gần bằng bao thuốc
lá, bọc plastic sản xuất theo công nghiệp.
Dân ở Nam Á như Việt, Miên, Lào, Thái thì ăn
đậu xanh. Bánh gì cũng nhân đậu xanh như bánh chưng, bánh tét, bánh
ít, bánh ú, bánh rán, bánh cam, chè trôi nước (xôi nước), bánh ổ
đậu xanh, bánh da lợn đậu xanh, bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng,
bánh dẻo nhân đậu xanh, bánh in nhân đậu xanh, bánh khúc nhân đậu xanh,
chè kho làm bằng đậu xanh (bánh đậu xanh ăn tết của miền Bắc). Chè
đậu xanh bột báng, chè táo sọn làm bằng đậu xanh.
Vì thế khi người Tàu đến sinh sống ở Việt Nam,
họ muốn bán bánh cho người Việt Nam thì phải chiều theo khẩu vị của
người Việt, làm bánh trung thu nhân đậu xanh hay hạt sen, làm bánh bía
nhân đậu xanh, sau này có thêm nhân sầu riêng.
Nói đến vỏ bánh trung thu của Đài Loan bị
cứng, không mềm. Tôi cũng có kinh nghiệm làm bánh trung thu bị vỏ
cứng như thế. Trước năm 1975, ở Sài Gòn mọc lên nhiều lớp nữ công gia
chánh, họ quảng cáo trên báo hàng tuần. Tôi đọc báo, thấy nơi nào
dạy các thứ bánh tôi thích thì tôi xin tiền mẹ đi học. Dù lúc đó
tôi chỉ độ 15-16 tuổi. Tôi nhớ tôi học làm bánh trung thu ở nhà bà
Giỏi, khoảng giữa chợ Đa Kao và rạp Văn Hoa, Đa Kao. Cái bánh nướng xong
rất thơm, nhưng cứng ngắc cắt rất khó.
Sau này ở Mỹ, tôi quen 1 chị lúc trước khi còn
ở Sài Gòn, từng học làm bánh trung thu của bà Quốc Việt. Vỏ bánh
làm theo cách bà chỉ dẫn cũng cứng khô, không mềm mỏng như bánh
ngoài tiệm bán. Vài năm sau, chị Kha vui mừng kể cho tôi nghe chị tình
cờ khám phá ra cách làm cho vỏ bánh mềm và mỏng. Chị kể rằng năm
ngoái vừa thắng đường xong, vì bận quá nên chị cất đường đi, hai
tuần sau chị mới có thì giờ lấy ra làm.
Không ngờ kỳ này vỏ bánh mềm, mỏng y như bánh
ngoài tiệm bán. Hóa ra bí quyết là chỗ này: “đường thắng xong
đừng làm bánh ngay. Đem cất đi, chờ một tuần – hai tuần sau hãy
làm”. Vì lúc đó đường không còn kết dính như ban đầu nữa, sẽ không
làm vỏ bánh bị cứng.
Ngắm trăng đêm rằm tháng 8 là niềm mơ ước, vì
tháng 8 mưa dài dài, ở Đài Loan cũng thế. Lời truyền khẩu ở Việt
hay ở Tàu trăng rằm tháng 8 tròn nhất và sáng nhất chưa chắc
đúng.
Từ khi ở Mỹ, có những ngày xuân, hè hay thu
trời trong vắt, không mây, nhìn lên trời cao vào ban đêm, có lần tôi
giật mình vì thấy ông trăng to ơi là to treo lơ lửng trước mặt mình.
Trăng to và trắng ngà! Có lẽ ở đây gần quỹ đạo của trăng bay quanh
trái đất nên nhìn thấy trăng to hơn chăng?
Bây giờ là những năm 2000, ở Sài Gòn đã bán
bánh trung thu trở lại nhờ chính phủ cho phép buôn bán theo “Kinh tế
thị trường”. Nhưng chẳng còn đèn trung thu bán cho trẻ em rước đèn.
Có lẽ tiền công làm một cái đèn chẳng đáng bao nhiêu, trong khi đi
làm xưởng may, xưởng giầy, xưởng dệt, xưởng điện tử, hay công xưởng,
tiền công cao hơn ngồi nhà làm mấy cái đèn thủ công. Đã thế, nạn
bắt cóc trẻ em bán qua Tàu, qua Kam Pu Chia quá nhiều. Để trẻ ra đường
không có người lớn đi theo dễ mất con như chơi!
Người Việt Nam tại Mỹ cũng cố gắng làm tết
Trung Thu cho trẻ em, để giúp các em duy trì chút ít văn hóa Việt nơi
xứ người. Để các em gặp nhau tập nói tiếng Việt. Điều này phải cám
ơn các vị lãnh đạo trong cộng đồng đã bỏ rất nhiều thì giờ và công
sức lẫn tiền của ra làm. Trong số này phải nhắc đến Văn Thi Sĩ
Lê Thị Nhị là một trong những người đã có lòng lo cho các em trong các
dịp tết, lễ từ vài chục năm qua. Chúc cô Nhị nhiều sức khỏe, dù cô
đang bệnh, đang trị liệu cũng vẫn vui vẻ làm việc. Rất khâm phục tấm
lòng của cô đối với tương lai các em nhỏ và đối với cộng đồng người
Việt tại Virginia.
TT-Thái An
9/1/2025