BÓNG HẠC LỒNG LỘNG GIỮA
TRỜI MÂY
Thấm thoắt đã hai
năm trôi qua kể từ Ôn quay gót về cõi Phật. Thời gian như thể nước lụt tràn đồng,
nhấn chìm tất cả dưới dòng chảy không ngừng, cuốn trôi mọi ký ức buồn vui của
kiếp người. Thời gian lại như đại địa, ngày mỗi ngày bồi thêm, chôn vùi và khỏa
lấp những dấu vết dù đẹp hay xấu của nhân loại. Thời gian bôi xóa cả nững yêu
thương hay ghét bỏ mà con người vướng mắc ở cõi này. Dòng thời gian khắc nghiệt
như thế ấy vậy mà không thể nào làm phai mờ hình bóng Ôn trong tâm tưởng tứ
chúng. Trời xanh mây trắng bao la kia vẫn lồng lộng chân dung vị xuất sỹ với
đôi mắt sâu sáng rỡ và nụ cười hiền từ. Không gian vô cùng tận vẫn thấp thoáng
bóng hạc dù hạc đã bay qua. Tiếng hạc vẫn đồng vọng với non sông và đạo pháp.
Nhớ Ôn, lật trang
thơ bất chợt thấy: “Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn”, tự dưng thấy Ôn như thể Từ Hải.
Một trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, khí phách ngang tàng nhưng lại rất
nghệ sỹ: “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo” ( Kiều – Nguyễn Du). Thơ Ôn
không phải là “thơ khẩu khí” làm màu mà là tiếng lòng tinh tế của người nghệ sỹ.
Xét toàn bộ hành trạng của Ôn để thấy chứ chẳng phải “tán tụng”. Một bậc xuất sỹ
buông xả rốt ráo như thế thì “khẩu khí” để làm gì? Nào phải chỉ anh hùng cái thế
mới mới vất vả “ngược xuôi”. Đời xuất sỹ như Ôn cũng vất vả ngược xuôi cả mấy
mươi năm. “Khuất thân cho trọn cuộc đời
luân lưu” nhưng Ôn chẳng thấy đấy là khổ. Toàn bộ tâm trí Ôn lo cho tiền đồ Phật
pháp, lo cho giáo dục – văn hóa, lo cho vận mệnh dân tộc và quốc gia. Vị xuất sỹ
mang tâm hồn nghệ sỹ ngược xuôi đường trần, ngược xuôi dòng đời. Đời dù có thế
nào đi nữa cũng không thể ngăn cản được tâm hồn người nghệ sỹ ôm trọn nửa cung
đàn.
Với Ôn, trước hết
là một tu sỹ Phật giáo, bởi vậy cái tư tưởng, cái khí chất, cái tiết tháo vẫn
là một ông tăng. Tâm hồn dù có tính nghệ sỹ cao bao nhiêu đi nữa Ôn vẫn đau đáu
với cái kiếp nhân sinh, cái khổ sanh tử luân hồi. Quán trọ nào đã ngăn nẻo về?
về đâu? Ai làm nên quán trọ? Chỉ mỗi một câu tám chữ “Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo
về” Ôn đã khái quát trọn quan niệm sanh tử luân hồi trong nhà Phật. Cuộc sống
này, thế gian này, cuộc lữ này, tất cả những ràng buộc vướng mắc của đời này…
là quán trọ ngăn cản nẻo về của chúng ta. Chẳng có ai làm ra quán trọ. Chính bản
thân ta ngăn nẻo về của chúng ta. Chính cái tâm của ta ngăn trở ta. Nẻo về có
thể hiểu là giác ngạn, là Tây Phương Tịnh Độ, là tịch tịnh niết bàn, là vô sanh
vô diệt…Cuộc đời mấy mươi năm ấm lạnh với biết bao nhiêu hệ lụy ở đời chính là
cái quán trọ ngăn nẻo về. Nếu chúng ta biết đấy là quán trọ thì nặng lòng mà
chi, bấu víu mà chi. Nửa cung đàn ngược xuôi như anh hùng Từ Hải còn rũ bỏ thì
hà huống gì cái “quán trọ” mà ta chỉ trọ tạm một thời gian. Hai câu thơ như nét
vẽ phác thảo nhưng toát lên thần khí của bậc trượng phu anh hùng mang tâm hồn
nghệ sỹ, lại vừa mở ra hành tung của một bậc xuất sỹ liễu đạo giữa đời.
Người đời xưng tụng
Ôn là thiền sư, thi sỹ, văn sỹ, học giả, triết gia, tư tưởng gia, nhà dịch thuật,
nhà văn hóa, nhà giáo dục, nhà thư pháp, nghệ sỹ dương cầm… Tất cả những danh
xưng ấy đều hội tụ trong Ôn. Mấy trăm năm dễ có được một người xuất sắc như Ôn.
Ôn là hiện thân của câu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất” mà các nhà Nho xưa thường nói. Trong chốn thiền lâm, Ôn là bậc long
tượng, là tòng lâm thạch trụ đương thân chống đỡ sự suy thoái của đạo pháp, dựng
lập lại những gì đã gãy đổ, chấn tác lại thanh quy, chèo chống con thuyền giáo
hội qua giông tố bão bùng. Ôn tiến như chánh pháp, lui cũng như chánhs pháp,
nói như chánhs pháp và im lặng cũng chánh pháp. Với vận mệnh dân tộc và quốc
gia, Ôn là trung thần nghĩa sỹ, dám nói lời thật, dám dám thân vì sự tồn vong của
dân tộc và quốc gia. Những tháng ngày sau nội chiến, đất nước tuy thống nhất về
địa lý nhưng lòng người ly tán, nhân tâm đầy sợ sệt âu lo, cuộc sống vô cùng khốn
khó, sự khủng bố rất dữ dội… Hàng vạn người ra đi tìm đường sống nhưng Ôn vẫn ở
lại cùng tứ chúng. Những ngày tháng ấy thì cả tăng tục đều khốn khó trăm bề. Ôn
đi khắp Vạn Giã, Lương Sơn, Trường Sơn…Dấu chân Ôn in khắp núi đồi
Sức yếu lòng đất cứng
Sinh nhai tủi nhục
nhiều
Thân gầy tay cuốc
nặng
Mắt lệ nóng tình
yêu
(Luống cải chân đồi
– Tuệ Sỹ)
Tình yêu của một vị
tu sỹ tất nhiên không phải là tình trai gái thông thường mà là tình yêu thương
con người, yêu thương đồng loại, yêu thương kiếp nhân sinh đầy khổ đau…
Chân đồi xanh luống
cải
Đời ta xanh viễn
phương
Sống chết một câu
hỏi
Sinh nhai lỡ độ đường
(Luống cải chân đồi
– Tuệ Sỹ)
Sống chết là chuyện
lớn của kiếp người, nhưng mạng người trong cuộc nội chiến hay sau cuộc nội chiến
cũng đều mong manh. Đời người vốn đã ngắn ngủi giữa hai làn hơi thở nhưng trong
cái hoàn cảnh hiện thực lúc bấy giờ nó còn như một câu hỏi, biết làm sao được
vì đó là cộng nghiệp của tất cả mọi người trên một dải non sông.
Yêu em dâng cả
ráng chiều thu
Em đốt tìnhs yêu bằng
hận thù
Cháy đỏ mùa đông
ta vẫn lạnh
Giấc mơ không kín
dãy song tù
(Tìm em trong giấc
chiêm bao – Tuệ Sỹ)
Nếu đọc thoáng qua
chắc không ít người sẽ thắc mắc : “Tại sao một tu sỹ còn tìm em trong chiêm
bao?” “Em” ở đây là ẩn dụ chứ nào phải là một người con gái hay một người “em”
cụ thể nào đó. Vì “tình yêu” “anh” ở lại với người, vì “tình yêu” “anh” nói lời
thật, vì “tình yêu” “anh” dấn thân cho “người” nhưng “em” lại đốt tình yêu ấy bằng
sự hận thù cho nên “anh” ngồi trong tù mà giấc mơ không kín được.
Cũng là “anh”, từ
trong ngục thất “Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu” (Tôi vẫn đợi – Tuệ Sỹ)
mà nhìn thế sự thăng trầm, ngẫm nghĩ về tiền đồ dân tộc, về mạng mạch Phật pháp…
“anh” đã
Phụng thử ngục tù
phạn
Cúng dường tối thắng
tôn
Thế gian trường
huyết hận
Bỉnh bát lệ vô
ngôn
(thơ – Tuệ Sỹ)
Đến đây thì có lẽ
rõ ràng cái “tình yêu” kia trong sáng biết bao, cao cả làm sao, vị tha biết mấy,
cứ như tứ vô lượng tâm trong nhà Phật. Ôn vì “tình yêu” tứ chúng, vì “tình yêu”
đạo pháp, vì “tình yêu” dân tộc và non nước này mà lên đường từ khi “Người ở lại
trong vòng tay bạo chúa” ( Tôi vẫn đợi – Tuệ Sỹ)
Những tháng ngày
áo lam gậy trúc đạp trường sơn, Ôn độc hành ly viễn, có khi Hải Đức viện, có Thị
Ngạn am, khi dọc đường thiên lý, khi trên đồi thông… Trên bước đường độc hành
ly viễn đã bao lần Ôn “xuống núi” lặng lẽ một mình
Ngày mai sư xuống
núi
Phố thị bước đường
cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm
mông lung
(Hạ sơn – Tuệ Sỹ)
Vì đâu nên nỗi bước
đường cùng? Vì nghiệp chung? Vì thế sự nhiễu nhương? Vì quốc độ vận suy? Chỉ còn
tiếng ho trong Phật điện mà Phật điện lúc này cũng mông lung biết là bao.
Trong một bài thơ
không tiêu đề. Ôn viết:
Nghìn năm trước lên núi
Nghìn năm sau xuống
lầu
Hạt cải tròn co mắt
Dấu chân người ở
đâu?
Khi đọc lên ta thấy
cái phong vị thơ Đường của người lên lầu “niệm thiên địa chi du du/ Độc sảng (thương)
nhiên nhi thế hạ” nhưng không phải vậy. Cuộc trăm năm của kiếp người nhưng đã
bao nghìn năm trước từng lên núi và nghìn năm sau còn mãi xuống lầu. Cuộc nhân
sinh vốn như thế, tưởng chừng nghịch lý khiến hạt cải ngạc nhiên tròn con mắt
nhưng với người trong đạo như Ôn thì có chi lạ đâu. Hạt cải chứa còn chứa cả
núi Tu Di kia mà! Sanh tử luân hồi bất tận biết dấu chân người nơi đâu huống
chi là lên núi với xuống lầu.
Cũng có những khi
Ôn phảng phất bóng dáng của trích tiên
Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng
Đốt mặt trời vô hạn cô liêu
Cái cô liêu của độc
hành thiên lý, sống đời ly viễn, đến đi cõi này như thể một cuộc quậy sóng
chơi. Không cô liêu sao được khi mà người thế tục không hiểu đã đành, ngay cả đồng
đạo pháp lữ cũng chẻ chia. Ôn dấn thân hanh hoạt vì đạo pháp, vì dân tộc chứ
nào phải vì danh vọng, danh vọng hay phẩm trật với Ôn chỉ là ngói bể gạch vụn
có đáng giá gì. Đại bàng, hồng hộc nơi đầu non vách núi. Cá côn, cá kình ngoài
vạn dặm trùng khơi. Trong cái khoảnh khắc cô liêu của đại trượng phu cũng khác
người đời, cô liêu không vì chuyện ngũ dục lục trần hay thất tình lục dục mà cô
liêu vì cuộc sinh tử luân hồi này. Nỗi cô liêu hay
Ôi nỗi buồn
Thần tiên vinh cửu
Nhớ luân hồi
Cát Bụi đỏ mắt ai
(Giác mơ trường
sơn – Tuệ Sỹ)
Dù với thân phận
tu sỹ nhưng tâm hồn thơ như “nhuốm cát bụi” đời, lại vừa thanh thoát xuất siêu
đến kỳ diệu chỉ có thể đọc và cảm nhận chứ không làm sao diễn tả hay nói ra được.
Với những vần thơ
này ta còn có thể cảm và hiểu được chút ít, còn giả như đụng đến những trước
tác hay phiên dịch đầy trí huệ như: Tổng quan về nghiệp, Dẫn vào tuệ giác Phật…
thì hàng Phật tử sơ cơ không kham nổi. Với số lượng đầu sách rất lớn mà ông đã
viết và dịch thuật thì hàng Phật tử sơ cơ cũng khó đọc hết chứ chưa nói đếnlà
hiểu hết. Sức làm việc của Ôn thậtt phi thường, ngay cả khi thân mang trọng bệnh
nhưng vẫn miệt mài ghi chép, biên soạn, phiên dịch không ngừng nghỉ trên giường
bệnh. Ôn chủ trì phiên dịch Đại Tạng Kinh (Thanh Văn Tạng) là một công trình đồ
sộ của Phật giáo Việt Nam. Ôn đi rồi nhưng hành trạng của Ôn vẫn in đậm trong
tâm tứ chúng. Cơ nghiệp của Ôn còn mãi với Phật pháp và non nước này.
Ôn vĩ đại quá
nhưng lại rất khiêm cung hòa mục. Ôn gầy gò như lau sậy nhưng bản thể tượng
vương, tòng lâm thạch trụ. Ôn là ngọn đèn truyền đăng tục diệm soi sáng con đường
Phật giáo Việt Nam. Những đệ tử của Ôn cũng đều là những bậc thức giả, trí giả,
hiền sỹ, tu sỹ, cư sỹ…Những vị ấy ngày đêm chung sức duy trì ngọn đèn chánh
pháp, gióng trống pháp, tiếp tục đi theo con đường Ôn đã dựng lập.
Ngày lễ đại tường
quy tập tứ chúng về các tự viện để tưởng niệm Ôn, ôn lại hanh trạng của Ôn. Con
từ xa đốt nén tâm hương tưởng nhớ Ôn. Con ngưỡng vọng Ôn. Con không dám xưng là
đệ tử của Ôn vì thấy mình kém hạnh, tệ trí và trì độn, mặc dù trong thâm tâm rất
muốn làm đệ tử của Ôn. Hồi Ôn còn tại thế, có lần về Sài Gòn, con muốn đến đảnh
lễ Ôn nhưng cứ lừng khừng không dám đến. Con biết Ôn không có nhiều thời gian rảnh,
sợ làm phiền Ôn, quanh Ôn lại có bao nhiêu tăng tục xuất sắc nên đành ngưỡng vọng
từ xa. Giờ Ôn đã đi rồi, thân xác trả lại cho tứ đại nhưng tinh thần của Ôn còn
mãi với thời gian. Dù không dám nhận là đệ tử của Ôn nhưng trong con vẫn cứ
văng vẳng tiếng gọi “Thầy ơi!”.
Ngày tháng trôi
qua như nước chảy mây bay, vậy mà mỗi bận nhìn lên bầu trời xanh con lại thấy
bóng dáng Ôn cười hiền hòa, đôi mắt sáng quắc tinh anh. Người đời bảo chim bay
qua hư không không để lại dấu vết, ấy vậy mà Ôn đi qua thế gian này, hư không vẫn
thấp thoáng bóng hạc vỗ cánhw giữa thinh không.
Lãng Thanh
Ất Lăng thành,
1125