Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

80 . NGUYỄN CHÂU Văn Hóa Đương Đại

                                                                                      


 

     Hết thời chinh chiến, ông Khinh chuyển qua ba ngành bảy nghề. Gần cuối đời ông làm to: Viện trưởng viện:“Khai thác tiềm năng văn hoá đương đại”. Trong định nghĩa rộng và phổ thông, đương đại (contemporary) là thời hiện tại, đương thời. Nhưng văn hoá đương thời có gì cho viện ông khai thác?

    - Ông ra đường mà xem, chúng là đệ nhất đẳng cấp, tầng thượng lưu cao tít nhưng chúng hơn gì ông chứ? Văn hoá mù mờ, chữ nghĩa không đầy lá mít, bản sắc dân tộc lai căng. Ông thì ki bo chắt bóp, nghiên nghiên cứu cứu, liêm chính cho cố vào, trước mặt chúng cung kính gọi ông Khinh, sau lưng chỉ gọi thằng Khinh. Ông mang hia bảy dặm cũng không theo kịp chúng nó! Ấy, tôi nói nghĩa đen còn nghĩa bóng thì… xin lỗi!

Mụ vợ dấm dẳng buông lời, như chửi bố ông Khinh.

Trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa chính là nguồn nội lực của dân tộc, đưa dân tộc vươn tới những giá trị mới của văn hóa đương đại cùng với việc bảo tồn bản sắc dân tộc. Đáng giận khi chúng đang cầm cân nảy mực, mà chúng chẳng hiểu gì về văn hoá, chúng đang ra sức huỷ hoại không thương tiếc. Ông Khinh tự nhủ.

     Ông thầm cám ơn đấng sinh thành đã đặt tên ông phù hợp với thời hiện đại. Ông Khinh, lão Khinh… Tóm lại “ông khinh tất chúng mầy! Khi có ai gọi tên Khinh, ông im lặng, lực phản hồi sẽ đưa âm thanh rót chát chúa vào lỗ tai của lũ ngu muội. Ông cười đắc chí: "Ông chửi chúng mầy đấy! Ông khinh chúng mầy đấy!".

     Người ta lập ra viện “Khai thác tiềm năng văn hoá đương đại” cốt để chắt lọc tinh hoa của ngàn năm văn vật, đáng ngạc nhiên viện tập hợp toàn một lũ hư danh, dù có bằng cấp đầy mình. Không như các viện sĩ hàn lâm cao quý được bầu, các viện sĩ của ông không cần mặc áo đuôi tôm (habit vert), được phép nghiên cứu tự do, bất kỳ nơi nào có chữ “văn hoá”. Thời đương đại, lồ lộ chữ “văn hoá” đầy đường.

     Ông nhớ thời thập niên 80s, ông xử một vụ ly hôn. Người đàn bà mắt trợn trừng, xỉa xói, tay chỉ thẳng vào mặt người đàn ông:

- Ổng lừa gạt tôi. Đồ điêu ngoa xảo trá!

Người đàn bà kể lể:

- Cách đây hơn một năm, tôi bán thuốc lá lề đường, ông ấy bước xuống từ chiếc xe U-oát, mua thuốc xong không nhận tiền dư trả lại. Tôi hỏi làm nghề gì? Ông bảo làm tài xế. Sau đấy, tôi bằng lòng lấy ông nhưng sau khi thành hôn tôi phát hiện ra ông ấy không phải là lái xe, mà là… tiến sĩ. Thời ấy dù còn khó khăn, sau bao nhiêu năm tang thương ngẫu lục nhưng liêm sĩ của người có học vẫn ngời ngời như ánh sao Khuê. Nho giáo tạo nên nhân cách con người, khoa học Âu Tây tạo nên tri thức, nên các vị thường nghĩ về người hơn nghĩ về mình.

     Ở cơ quan đã chán, bước chân về nhà như ở tù. Trong tù còn có chút tự do cho ý nghĩ đi hoang, tha hồ cho tư tưởng rộng đường bay, không sợ lũ hèn hạ rình rập và suy diễn vì không có bút giấy để viết ra, thấm nhuần câu bút sa gà chết...

Ông im lặng, với ông "mũ ni che tai" là phản kháng, là khinh bỉ. “Văn hoá đương đại” đang cổ suý cho chủ nghĩa cá nhân, quên đi lợi ích cộng đồng. Điển hình ở viện ông, có thằng cha nào biết đến thằng cha nào, nghênh ngang tự đắc, mặt hất lên trời. Chả có công trình gì đáng để hiện thực hóa có lợi ích cho nhân quần và xã hội hoặc chỉ đề xuất cấm cản mà không đưa ra được giải pháp nào thay thế. Tà tà vênh váo áo mũ cân đai...

- Dẹp mẹ nó Viện của ông, toàn một lũ ngồi chơi xơi nước, ăn hại đái nát, ngồi nhà mát ăn bát vàng. Tôi không còn kiên nhẫn ngồi chờ ông đổi đời!

Mụ vợ lão Khinh cong cớn, xỉ vả. Mụ không gọi tên ông nên không có lực phản hồi, ông chỉ biết im lặng cố hữu.

......

     Lão Khinh lẩm nhẩm:”Giáp Ất Bính Đinh Mậu…”. Năm Ất Tỵ sắp đến, lão 61, lục thập nhi nhĩ thuận nhưng sao càng ngày lão nghe chuyện gì cũng trái tai, gai mắt. Tuổi này đúng ra khi nhìn hay nghe thấy điều gì người ta không những không cảm thấy chướng mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Lão cũng có học, thấm nhuần đạo đức, kiến văn, kinh nghiệm phong phú cuộc sống. Không nhẽ…

     Hình như bây giờ cái gì cũng ngược đời. Thằng ranh con rú ga ầm ầm, lão hoảng hồn nép vào lề đường, hắn còn quay lại cười rú lên, kèm theo:”Đồ già dịch!”.

     Lão đâm ra nghi ngờ cả lời nói, ngôn ngữ hàm chứa ý nghĩa tệ hại chưa từng có:“Lão khốt này hay nhỉ! Già khọm chưa đủ lớn”. Lão rụt rè, xưa nay lão học đạo thánh hiền: “Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh/ Thoái nhất bộ hải khoát thiên không” (Nhịn được cái nóng nhất thời thì gió lặng sóng yên/ Lùi lại một bước nhường người thì biển trời bát ngát). Nhưng mặt lão Khinh phừng phừng, ngao ngán nhân tâm thế sự, lão muốn chửi. Bỗng dưng lão sợ con người.

……….

Lão Khinh đã từng nghiên cứu về phong trào phục hưng văn hóa và nghệ thuật xuất hiện ở châu Âu từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII.

"Các sử gia thường lập luận những biến đổi về trí tuệ này là một cầu nối giữa Trung Cổ và thời hiện đại. Mặc dù Phục Hưng chứng kiến những cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực, cũng như những thay đổi chính trị-xã hội, nó vẫn được biết đến nhiều nhất bởi những thành tựu lớn lao về mỹ thuật và những cống hiến của những vĩ nhân đa tài như Leonardo da Vinci hay Michelangelo đã làm xuất hiện thuật ngữ Vĩ nhân Phục Hưng ("Renaissance Great Man").... (*)

Ông đề ra chủ trương phục hồi các giá trị văn hóa, nghệ thuật mang bản sắc dân tộc, những tinh hoa đạo đức đã làm rạng rỡ kể từ

Văn hóa Đông Sơn,

"Có những nghiên cứu cho rằng trên cơ sở văn hóa Đông Sơn, nhà nước văn minh đầu tiên của người Việt, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nối tiếp là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương đã phát triển, trước khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Hán (...) trước đó là Văn hóa Phùng Nguyên đến Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò Mun". (wikipedia)

Những gì cần được bảo tồn và khơi dậy lòng tự hào dân tộc phải được đưa vào các nghiên cứu hàng đầu của Viện nhưng các viện sĩ của ông không mặn mà, chỉ thực hiện cầm chừng cho xong phận sự và đưa vào... lưu trữ.

Sự phồn vinh từ những lợi ích nhóm của một tầng lớp quan liêu thiếu trình độ học vấn và chuyên môn, tạo điều kiện cho bọn văn nghệ kém văn hóa thông qua truyền thông đã hủy hoại văn hóa của dân tộc, đang tràn lan hằng ngày làm băng hoại ý thức văn hóa đích thực của lớp trẻ dẫn đến những hành vi thiếu lòng tự trọng và nhục quốc thể.

Những chủ trương ban đầu của ông mong được "ôn cố tri tân" nền văn hóa dân tộc như Nhật Bản hay Hàn quốc sau chiến tranh đã bị áp đảo bởi thế lực kim tiền, lấy gì khai thác cho nền văn hóa đương đại, vô hình chung các viện sĩ của ông đã cổ súy cho sự băng hoại nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

     Tiết lập đông khí trời se lạnh nhưng khô hanh, lá bàng chuyển sang màu vàng nâu, ửng đỏ. Ông Khinh như cây bàng già cô đơn trong sân trường trống vắng, càng hiu quạnh hơn với phố phường nhộn nhịp, đông vui. Những “vật thể” phô trương ngồn ngộn, những tượng đài vô tri nhìn xuống dòng đời không cảm xúc. Những công trình công ích bị lạm dụng, cả lũ hân hoan hút những dòng máu nóng hổi rỉ ra từ “vật thể”. Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, tiếng nói, chữ viết, tác phẩm nghệ thuật, khoa học, ngữ văn, nghề thủ công, y dược học cổ truyền... đã bị tụt hậu vì văn hoá không có máu!.

    Những thằng có quyền hành, cố tình đui, “Đa kim ngân phá luật lệ” mất rồi.”

     Ông Sâm buông lời như sấm sét, lão Khinh giật nẩy mình. Người thông tuệ như ông còn mù mờ với những thông tin sống chết như chơi, huống gì bà con quanh năm đầu tắt mặt tối, sớm hôm mưu sinh trong môi trường nhiễm độc, bể khổ đời người?

    Thiện ác không còn lằn ranh, khái niệm tâm linh nhắm vào lợi lộc, cầu vinh. Không quá khứ vị lai, lương tâm bị thui chột giữa bộn bề dối gian, ma mị.

Thật hiếm triều đại nào có chính sách dùng người cởi mở, bao dung như thời kỳ nhà Mạc, không chỉ dám dùng người cựu triều thù địch, nhà Mạc còn trọng dụng cả những người từng theo địch trở về.

     Chính sách dùng người của nhà Mạc còn được đời sau ca ngợi. Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cuối thời Lê trung hưng ghi: "Cái đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết...”.

     Cơn mưa rả rích buồn nẫu ruột, bầu trời trắng đục màu sương. Con chim lẻ loi ẩn mình trong ngọn cây rậm lá, tiếng kêu chim chíp mơ hồ gợi lão Khinh nhớ về một thời không xa lắm, một làng quê...

…….

     Bà Tám – mẹ lão Khinh, khoan thai nhai trầu, đôi môi cắn chỉ  hạt điều. Hai tay khoanh đầu gối nhìn ra ngoài đồng mênh mông xanh màu lúa, chìm trong mưa giăng. Cơn mưa như rơi từng hạt, tiếng mưa rơi như nhặt như khoan, như gieo vào lòng người nỗi nhớ nhung không tên, không họ.

     Những con cá rô nhảy rồn rột khi chiếc lờ được nhấc lên, màu xanh đen thân cá với hàng vi xoè đẹp mắt. Chiếc đủa tre vót nhọn, xuyên dọc. Mùi thơm toả ra trên bếp than rực lửa, chén nước mắm gừng với cơm lúa mới.

     Bà Tám vén cao ống quần, vác cuốc ra đồng, chiếc tơi lá không đủ che thân. Bà quay nhìn lão:”Mẹ bứt mấy cọng bông súng, về luộc con ăn. Nồi cá kho lá gừng treo trên giàn, ăn rồi đi học!”.

     Tiếng chim non chíp chíp đầu hồi, căn nhà tranh của hai mẹ con lão trơ vơ trên gò giữa đồng, dưới cây trâm già. Bà Tám không chồng mà chửa. Làng phạt vạ, may không cạo trọc bôi vôi. Bà tảo tần sớm hôm nuôi lão nên người.

…….

     Lão Khinh nhẹ nhàng đi vào chỗ mẹ nằm. Bà Tám đã gần tám mươi, nhưng minh mẫn, da dẻ hồng hào. Lão quỳ xuống bên mẹ, cầm tay đưa lên môi hôn, giọt nước ứa ra từ khoé mắt bà. Mãi gần mười năm trở lại đây, lão khuyên mãi bà mới chịu ra thành phố sống với gia đình lão. Nhưng hình như bà không vui, bà chỉ thích sống với luống rau, vườn cà, con gà, con vịt… nơi quê nhà nghèo khổ của bà.

     Lão ngạc nhiên thấy mẹ lật gối, lấy thư mời của hội người cao tuổi. Có lẽ hội chuẩn bị làm lễ thượng thọ, nhưng không. Thư mời dự hội thảo của các chuyên gia nước ngoài về sức khoẻ của các cụ. Ơn trời, chưa chắc con cháu lo được thế này. Lão dìu mẹ dậy, chải tóc cho bà, chiếc áo lụa màu mỡ gà từ ngày mua về bà chưa mặc lần nào. Lão sung sướng đi chầm chậm bên mẹ như thời còn thơ ấu tâm trạng hân hoan, hãnh diện vì mẹ.

     Lướt qua danh sách các loại thuốc, thực phẩm chức năng dành cho người lớn tuổi. Toàn thuốc quý nhưng mua một, tặng một. Lão Khinh nhẩm số tiền mang theo, cô phiên dịch nhanh nhẹn:

- Bác chỉ cần ký vào, cháu sẽ giúp bác!

Người đâu mà xinh đẹp và lịch sự quá thể!

     Con cháu nội ôm túi thuốc, nhìn bà trìu mến:

- Bà sướng nhé. Bà khoẻ hơn, cháu sẽ đưa bà về quê!

Bà tiếc tiền nhưng lòng rộn rã niềm vui vì sự hiếu thảo của con, cháu. Cô mân mê từng hộp thuốc, bỗng tái mặt:

- Thuốc quá date bố ơi! Lão vội lấy kính, mặt nghệch ra. Lão Khinh dắt tay con gái ra ngoài hiên:

- Đừng nói với bà con nhé!Ông vội bỏ vào thùng rác, may mà bà nặng tai không nghe.

    - Một lũ khốn nạn, đem ngôn từ bác ái, toa rập lừa đảo những kẻ bần cùng. Một lũ vô lương tâm, sâu mọt làm người, một lũ…

Ông Sâm nghe qua giận dữ tuôn ra những lời chửi rủa. Nhưng ông ngắt ngứ, không còn từ nào tệ hơn để diễn đạt sự uất ức trong ông.

……..

      Bà cụ Tám nghe thoảng thoảng mùi trầm hương, không gian vắng lặng. Thời khắc giao thừa mãi thiêng liêng đối với bà, năm mới sẽ mang lại hạnh phúc, lòng tin yêu, niềm hy vọng thái hoà. Những lo âu, phiền muộn, bất hạnh của gia đình bà, của nhân gian sẽ rời xa, tan chìm theo năm cũ.

     Bàn thờ không di ảnh, không biết ai đã sinh ra bà. Bà chỉ nhớ mơ hồ cô nhi viện H. với bóng dáng các dì phước nghiêm khắc đã dày công nuôi dưỡng. Hơn mười tuổi, bà trốn ra ngoài lang thang đầu đường xó chợ. Sau hiệp định Genève, bước chân vô định đưa bà đến một miền quê lạ hoắc. Ngày làm thuê, đêm về ngủ góc miếu Thần hoàng. Một đêm mưa gió bão bùng, sét đánh tan hoang cây đa già bên miếu. Bà bị cưỡng hiếp, bởi người đàn ông không rõ mặt. Lão Khinh ra đời từ đó.

     Gương mặt lão Khinh khôi ngô, người ta gọi lão là đứa con rơi của Thần hoàng. Những bà mẹ đôn hậu, đùm bọc mẹ con lão như những người thân máu mủ. Kỷ niệm thời ấu thơ, nơi bà cụ Tám nhận làm quê ngoại, vương vấn mãi trong lòng lão khôn nguôi.

      Trên mảng tường dọc phòng khách, lão Khinh treo bức tranh khổ lớn, phong cảnh đồng quê, hai con trâu nhởn nhơ gặm cỏ. Xa xa, đàn cò trắng tung cánh la đà, hàng cau trước căn nhà tranh đơn sơ, đổ bóng mỏng manh theo ánh nắng ráng đỏ còn sót lại của hoàng hôn. Lão Khinh nhờ hoạ sĩ vẽ thêm cây trâm già, bầy gà để mẹ nhìn đở nhớ.

……..

     Năm Giáp Thìn sắp qua, mùa xuân chỉ gieo vào lòng lão nỗi bất an.

     Tiếng chuông nhà thờ ngân vang trong đêm trừ tịch, lão Khinh đã sống trọn một lục thập hoa giáp. Lão sẽ bắt đầu chu kỳ mới nhưng thời nay nhân tâm suy đồi, bạo lực man trá lên ngôi đều do sự giáo dục lệch hướng mà ra, lòng lão u uẩn. Chính lão cũng thờ ơ, khiếp nhược, cam phận cho cuộc sống riêng mình, lão đang sám hối trước vong linh tiên tổ. Ngước nhìn những vì sao long lanh trên bầu trời xanh thăm thẳm, lão thành kính cầu mong năm mới mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an.

 

Nguyễn Châu

 Nguồn:

(1) https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5c_H%C6%B0ng9