Hết
thời chinh chiến, ông Khinh chuyển qua ba ngành bảy nghề. Gần cuối đời ông làm
to: Viện trưởng viện:“Khai thác tiềm năng văn hoá đương đại”. Trong định nghĩa
rộng và phổ thông, đương đại (contemporary) là thời hiện tại, đương thời. Nhưng
văn hoá đương thời có gì cho viện ông khai thác?
-
Ông ra đường mà xem, chúng là đệ nhất đẳng cấp, tầng thượng lưu cao tít nhưng
chúng hơn gì ông chứ? Văn hoá mù mờ, chữ nghĩa không đầy lá mít, bản sắc dân
tộc lai căng. Ông thì ki bo chắt bóp, nghiên nghiên cứu cứu, liêm chính cho cố
vào, trước mặt chúng cung kính gọi ông Khinh, sau lưng chỉ gọi thằng Khinh. Ông
mang hia bảy dặm cũng không theo kịp chúng nó! Ấy, tôi nói nghĩa đen còn nghĩa
bóng thì… xin lỗi!
Mụ vợ
dấm dẳng buông lời, như chửi bố ông Khinh.
Trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa chính là nguồn nội lực của dân tộc, đưa dân tộc vươn tới những giá trị mới của văn hóa đương đại cùng với việc bảo tồn bản sắc dân tộc. Đáng giận khi chúng đang cầm cân nảy mực, mà chúng chẳng hiểu gì về văn hoá, chúng đang ra sức huỷ hoại không thương tiếc. Ông Khinh tự nhủ.
Ông
thầm cám ơn đấng sinh thành đã đặt tên ông phù hợp với thời hiện đại. Ông
Khinh, lão Khinh… Tóm lại “ông khinh tất chúng mầy! Khi có ai gọi tên Khinh,
ông im lặng, lực phản hồi sẽ đưa âm thanh rót chát chúa vào lỗ tai của lũ ngu
muội. Ông cười đắc chí: "Ông chửi chúng mầy đấy! Ông khinh chúng mầy
đấy!".
Người
ta lập ra viện “Khai thác tiềm năng văn hoá đương đại” cốt để chắt lọc tinh hoa
của ngàn năm văn vật, đáng ngạc nhiên viện tập hợp toàn một lũ hư danh, dù có
bằng cấp đầy mình. Không như các viện sĩ hàn lâm cao quý được bầu, các viện sĩ
của ông không cần mặc áo đuôi tôm (habit vert), được phép nghiên cứu tự do, bất
kỳ nơi nào có chữ “văn hoá”. Thời đương đại, lồ lộ chữ “văn hoá” đầy đường.
Ông
nhớ thời thập niên 80s, ông xử một vụ ly hôn. Người đàn bà mắt trợn trừng, xỉa
xói, tay chỉ thẳng vào mặt người đàn ông:
- Ổng
lừa gạt tôi. Đồ điêu ngoa xảo trá!
Người
đàn bà kể lể:
- Cách
đây hơn một năm, tôi bán thuốc lá lề đường, ông ấy bước xuống từ chiếc xe
U-oát, mua thuốc xong không nhận tiền dư trả lại. Tôi hỏi làm nghề gì? Ông bảo
làm tài xế. Sau đấy, tôi bằng lòng lấy ông nhưng sau khi thành hôn tôi phát
hiện ra ông ấy không phải là lái xe, mà là… tiến sĩ. Thời ấy dù còn khó khăn,
sau bao nhiêu năm tang thương ngẫu lục nhưng liêm sĩ của người có học vẫn ngời
ngời như ánh sao Khuê. Nho giáo tạo nên nhân cách con người, khoa học Âu Tây
tạo nên tri thức, nên các vị thường nghĩ về người hơn nghĩ về mình.
Ở
cơ quan đã chán, bước chân về nhà như ở tù. Trong tù còn có chút tự do cho ý
nghĩ đi hoang, tha hồ cho tư tưởng rộng đường bay, không sợ lũ hèn hạ rình rập
và suy diễn vì không có bút giấy để viết ra, thấm nhuần câu bút sa gà chết...
Ông im
lặng, với ông "mũ ni che tai" là phản kháng, là khinh bỉ. “Văn hoá
đương đại” đang cổ suý cho chủ nghĩa cá nhân, quên đi lợi ích cộng đồng. Điển
hình ở viện ông, có thằng cha nào biết đến thằng cha nào, nghênh ngang tự đắc,
mặt hất lên trời. Chả có công trình gì đáng để hiện thực hóa có lợi ích cho
nhân quần và xã hội hoặc chỉ đề xuất cấm cản mà không đưa ra được giải pháp nào
thay thế. Tà tà vênh váo áo mũ cân đai...
- Dẹp mẹ
nó Viện của ông, toàn một lũ ngồi chơi xơi nước, ăn hại đái nát, ngồi nhà mát
ăn bát vàng. Tôi không còn kiên nhẫn ngồi chờ ông đổi đời!
Mụ vợ
lão Khinh cong cớn, xỉ vả. Mụ không gọi tên ông nên không có lực phản hồi, ông
chỉ biết im lặng cố hữu.
......
Lão
Khinh lẩm nhẩm:”Giáp Ất Bính Đinh Mậu…”. Năm Ất Tỵ sắp đến, lão 61, lục thập
nhi nhĩ thuận nhưng sao càng ngày lão nghe chuyện gì cũng trái tai, gai mắt.
Tuổi này đúng ra khi nhìn hay nghe thấy điều gì người ta không những không cảm
thấy chướng mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Lão cũng có học, thấm nhuần đạo đức,
kiến văn, kinh nghiệm phong phú cuộc sống. Không nhẽ…
Hình
như bây giờ cái gì cũng ngược đời. Thằng ranh con rú ga ầm ầm, lão hoảng hồn
nép vào lề đường, hắn còn quay lại cười rú lên, kèm theo:”Đồ già dịch!”.
Lão
đâm ra nghi ngờ cả lời nói, ngôn ngữ hàm chứa ý nghĩa tệ hại chưa từng có:“Lão
khốt này hay nhỉ! Già khọm chưa đủ lớn”. Lão rụt rè, xưa nay lão học đạo thánh
hiền: “Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh/ Thoái nhất bộ hải khoát thiên
không” (Nhịn được cái nóng nhất thời thì gió lặng sóng yên/ Lùi lại một bước
nhường người thì biển trời bát ngát). Nhưng mặt lão Khinh phừng phừng, ngao
ngán nhân tâm thế sự, lão muốn chửi. Bỗng dưng lão sợ con người.
……….
Lão
Khinh đã từng nghiên cứu về phong trào phục hưng văn hóa và nghệ thuật xuất
hiện ở châu Âu từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII.
"Các
sử gia thường lập luận những biến đổi về trí tuệ này là một cầu nối giữa Trung
Cổ và thời hiện đại. Mặc dù Phục Hưng chứng kiến những cuộc cách mạng trong
nhiều lĩnh vực, cũng như những thay đổi chính trị-xã hội, nó vẫn được biết đến
nhiều nhất bởi những thành tựu lớn lao về mỹ thuật và những cống hiến của những
vĩ nhân đa tài như Leonardo da Vinci hay Michelangelo đã làm xuất hiện thuật
ngữ Vĩ nhân Phục Hưng ("Renaissance Great Man").... (*)
Ông đề
ra chủ trương phục hồi các giá trị văn hóa, nghệ thuật mang bản sắc dân tộc,
những tinh hoa đạo đức đã làm rạng rỡ kể từ
Văn hóa
Đông Sơn,
"Có
những nghiên cứu cho rằng trên cơ sở văn hóa Đông Sơn, nhà nước văn minh đầu
tiên của người Việt, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nối tiếp là nhà nước
Âu Lạc của An Dương Vương đã phát triển, trước khi bị ảnh hưởng của nền văn
minh Hán (...) trước đó là Văn hóa Phùng Nguyên đến Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa
Gò Mun". (wikipedia)
Những gì
cần được bảo tồn và khơi dậy lòng tự hào dân tộc phải được đưa vào các nghiên
cứu hàng đầu của Viện nhưng các viện sĩ của ông không mặn mà, chỉ thực hiện cầm
chừng cho xong phận sự và đưa vào... lưu trữ.
Sự phồn
vinh từ những lợi ích nhóm của một tầng lớp quan liêu thiếu trình độ học vấn và
chuyên môn, tạo điều kiện cho bọn văn nghệ kém văn hóa thông qua truyền thông
đã hủy hoại văn hóa của dân tộc, đang tràn lan hằng ngày làm băng hoại ý thức
văn hóa đích thực của lớp trẻ dẫn đến những hành vi thiếu lòng tự trọng và nhục
quốc thể.
Những
chủ trương ban đầu của ông mong được "ôn cố tri tân" nền văn hóa dân
tộc như Nhật Bản hay Hàn quốc sau chiến tranh đã bị áp đảo bởi thế lực kim
tiền, lấy gì khai thác cho nền văn hóa đương đại, vô hình chung các viện sĩ của
ông đã cổ súy cho sự băng hoại nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Tiết
lập đông khí trời se lạnh nhưng khô hanh, lá bàng chuyển sang màu vàng nâu, ửng
đỏ. Ông Khinh như cây bàng già cô đơn trong sân trường trống vắng, càng hiu
quạnh hơn với phố phường nhộn nhịp, đông vui. Những “vật thể” phô trương ngồn
ngộn, những tượng đài vô tri nhìn xuống dòng đời không cảm xúc. Những công
trình công ích bị lạm dụng, cả lũ hân hoan hút những dòng máu nóng hổi rỉ ra từ
“vật thể”. Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, tiếng nói, chữ viết, tác phẩm
nghệ thuật, khoa học, ngữ văn, nghề thủ công, y dược học cổ truyền... đã bị tụt
hậu vì văn hoá không có máu!.
Những
thằng có quyền hành, cố tình đui, “Đa kim ngân phá luật lệ” mất rồi.”
Ông
Sâm buông lời như sấm sét, lão Khinh giật nẩy mình. Người thông tuệ như ông còn
mù mờ với những thông tin sống chết như chơi, huống gì bà con quanh năm đầu tắt
mặt tối, sớm hôm mưu sinh trong môi trường nhiễm độc, bể khổ đời người?
Thiện
ác không còn lằn ranh, khái niệm tâm linh nhắm vào lợi lộc, cầu vinh. Không quá
khứ vị lai, lương tâm bị thui chột giữa bộn bề dối gian, ma mị.
Thật
hiếm triều đại nào có chính sách dùng người cởi mở, bao dung như thời kỳ nhà
Mạc, không chỉ dám dùng người cựu triều thù địch, nhà Mạc còn trọng dụng cả
những người từng theo địch trở về.
Chính
sách dùng người của nhà Mạc còn được đời sau ca ngợi. Sách Vũ trung tùy bút của
Phạm Đình Hổ cuối thời Lê trung hưng ghi: "Cái đức chính của thời Minh Đức
(niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc
vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng
người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết...”.
Cơn
mưa rả rích buồn nẫu ruột, bầu trời trắng đục màu sương. Con chim lẻ loi ẩn
mình trong ngọn cây rậm lá, tiếng kêu chim chíp mơ hồ gợi lão Khinh nhớ về một
thời không xa lắm, một làng quê...
…….
Bà
Tám – mẹ lão Khinh, khoan thai nhai trầu, đôi môi cắn chỉ hạt điều.
Hai tay khoanh đầu gối nhìn ra ngoài đồng mênh mông xanh màu lúa, chìm trong
mưa giăng. Cơn mưa như rơi từng hạt, tiếng mưa rơi như nhặt như khoan, như gieo
vào lòng người nỗi nhớ nhung không tên, không họ.
Những
con cá rô nhảy rồn rột khi chiếc lờ được nhấc lên, màu xanh đen thân cá với
hàng vi xoè đẹp mắt. Chiếc đủa tre vót nhọn, xuyên dọc. Mùi thơm toả ra trên
bếp than rực lửa, chén nước mắm gừng với cơm lúa mới.
Bà
Tám vén cao ống quần, vác cuốc ra đồng, chiếc tơi lá không đủ che thân. Bà quay
nhìn lão:”Mẹ bứt mấy cọng bông súng, về luộc con ăn. Nồi cá kho lá gừng treo
trên giàn, ăn rồi đi học!”.
Tiếng
chim non chíp chíp đầu hồi, căn nhà tranh của hai mẹ con lão trơ vơ trên gò
giữa đồng, dưới cây trâm già. Bà Tám không chồng mà chửa. Làng phạt vạ, may
không cạo trọc bôi vôi. Bà tảo tần sớm hôm nuôi lão nên người.
…….
Lão
Khinh nhẹ nhàng đi vào chỗ mẹ nằm. Bà Tám đã gần tám mươi, nhưng minh mẫn, da
dẻ hồng hào. Lão quỳ xuống bên mẹ, cầm tay đưa lên môi hôn, giọt nước ứa ra từ
khoé mắt bà. Mãi gần mười năm trở lại đây, lão khuyên mãi bà mới chịu ra thành
phố sống với gia đình lão. Nhưng hình như bà không vui, bà chỉ thích sống với
luống rau, vườn cà, con gà, con vịt… nơi quê nhà nghèo khổ của bà.
Lão
ngạc nhiên thấy mẹ lật gối, lấy thư mời của hội người cao tuổi. Có lẽ hội chuẩn
bị làm lễ thượng thọ, nhưng không. Thư mời dự hội thảo của các chuyên gia nước
ngoài về sức khoẻ của các cụ. Ơn trời, chưa chắc con cháu lo được thế này. Lão
dìu mẹ dậy, chải tóc cho bà, chiếc áo lụa màu mỡ gà từ ngày mua về bà chưa mặc
lần nào. Lão sung sướng đi chầm chậm bên mẹ như thời còn thơ ấu tâm trạng hân
hoan, hãnh diện vì mẹ.
Lướt
qua danh sách các loại thuốc, thực phẩm chức năng dành cho người lớn tuổi. Toàn
thuốc quý nhưng mua một, tặng một. Lão Khinh nhẩm số tiền mang theo, cô phiên
dịch nhanh nhẹn:
- Bác
chỉ cần ký vào, cháu sẽ giúp bác!
Người
đâu mà xinh đẹp và lịch sự quá thể!
Con
cháu nội ôm túi thuốc, nhìn bà trìu mến:
- Bà
sướng nhé. Bà khoẻ hơn, cháu sẽ đưa bà về quê!
Bà tiếc
tiền nhưng lòng rộn rã niềm vui vì sự hiếu thảo của con, cháu. Cô mân mê từng
hộp thuốc, bỗng tái mặt:
- Thuốc
quá date bố ơi! Lão vội lấy kính, mặt nghệch ra. Lão Khinh dắt tay con gái ra
ngoài hiên:
- Đừng
nói với bà con nhé!Ông vội bỏ vào thùng rác, may mà bà nặng tai không nghe.
-
Một lũ khốn nạn, đem ngôn từ bác ái, toa rập lừa đảo những kẻ bần cùng. Một lũ
vô lương tâm, sâu mọt làm người, một lũ…
Ông Sâm
nghe qua giận dữ tuôn ra những lời chửi rủa. Nhưng ông ngắt ngứ, không còn từ
nào tệ hơn để diễn đạt sự uất ức trong ông.
……..
Bà
cụ Tám nghe thoảng thoảng mùi trầm hương, không gian vắng lặng. Thời khắc giao
thừa mãi thiêng liêng đối với bà, năm mới sẽ mang lại hạnh phúc, lòng tin yêu,
niềm hy vọng thái hoà. Những lo âu, phiền muộn, bất hạnh của gia đình bà, của
nhân gian sẽ rời xa, tan chìm theo năm cũ.
Bàn
thờ không di ảnh, không biết ai đã sinh ra bà. Bà chỉ nhớ mơ hồ cô nhi viện H.
với bóng dáng các dì phước nghiêm khắc đã dày công nuôi dưỡng. Hơn mười tuổi,
bà trốn ra ngoài lang thang đầu đường xó chợ. Sau hiệp định Genève, bước chân
vô định đưa bà đến một miền quê lạ hoắc. Ngày làm thuê, đêm về ngủ góc miếu
Thần hoàng. Một đêm mưa gió bão bùng, sét đánh tan hoang cây đa già bên miếu.
Bà bị cưỡng hiếp, bởi người đàn ông không rõ mặt. Lão Khinh ra đời từ đó.
Gương
mặt lão Khinh khôi ngô, người ta gọi lão là đứa con rơi của Thần hoàng. Những
bà mẹ đôn hậu, đùm bọc mẹ con lão như những người thân máu mủ. Kỷ niệm thời ấu
thơ, nơi bà cụ Tám nhận làm quê ngoại, vương vấn mãi trong lòng lão khôn nguôi.
Trên
mảng tường dọc phòng khách, lão Khinh treo bức tranh khổ lớn, phong cảnh đồng
quê, hai con trâu nhởn nhơ gặm cỏ. Xa xa, đàn cò trắng tung cánh la đà, hàng
cau trước căn nhà tranh đơn sơ, đổ bóng mỏng manh theo ánh nắng ráng đỏ còn sót
lại của hoàng hôn. Lão Khinh nhờ hoạ sĩ vẽ thêm cây trâm già, bầy gà để mẹ nhìn
đở nhớ.
……..
Năm
Giáp Thìn sắp qua, mùa xuân chỉ gieo vào lòng lão nỗi bất an.
Tiếng
chuông nhà thờ ngân vang trong đêm trừ tịch, lão Khinh đã sống trọn một lục
thập hoa giáp. Lão sẽ bắt đầu chu kỳ mới nhưng thời nay nhân tâm suy đồi, bạo
lực man trá lên ngôi đều do sự giáo dục lệch hướng mà ra, lòng lão u uẩn. Chính
lão cũng thờ ơ, khiếp nhược, cam phận cho cuộc sống riêng mình, lão đang sám
hối trước vong linh tiên tổ. Ngước nhìn những vì sao long lanh trên bầu trời
xanh thăm thẳm, lão thành kính cầu mong năm mới mưa thuận gió hoà, quốc thái
dân an.
Nguyễn
Châu
Nguồn:
(1)
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5c_H%C6%B0ng9