TẾT…TẢN MẠN VỚI TIỀN
TỪ BÀI THƠ VUI MỪNG NĂM MỚI
CHÚC tụng người thân đón lì xì
TÂN khổ theo năm rồi đi mất
XUÂN đầy Phúc, Thọ với Lộc đa!
AN vui chúc đồng bào khắp chốn
KHANG kiện đời tươi ở mọi nhà
THỊNH sung, may mắn cho người trẻ
VƯỢNG, vững thân tâm với cụ già
VẠN việc chúc khởi đầu thuận lợi
SỰ gì to, nhỏ cũng hanh thông
NHƯ Tỵ luôn chuyển mình năng động
Ý người trùng ý với trời mong
CHÚC bạn một năm thành công lớn
MỪNG có đời riêng hạnh phúc đầy
NĂM nay nổ lực nhiều đi nhé
MỚI mẻ đang chờ bạn đó nghe!
(Chúc xuân – Ngọc Hùng)
Trong nhiều ước ao khi Xuân về Tết đến, dễ
thấy yếu tố tài lộc được nhắc đến nhiều. Dồi dào tiền bạc luôn là động lực thúc
đẩy người ta hoạt động.“Tiền là Tiên là
Phật, là sức bật tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già” nghe vui cửa miệng nhưng
cũng nói lên ảnh hưởng mạnh mẽ của tiền bạc trong đời sống xưa nay.
SỨC NẶNG TIỀN XƯA
Tiền cổ Việt Nam thương
hình tròn, đường kính khoảng 22- 24 mm , có lổ vuông cạnh khỏang 5 mm ở giữa,
là hình tượng trời tròn đất vuông gợi ý ảnh hưởng cả âm dương thiên địa, làm bằng đồng hoặc kẽm, một mặt có các chữ Hán thường là niên hiệu đời vua đã
đúc ra kết hợp với chữ “thông bảo” (có khi “đại bảo”, “trấn bảo”…). Đồng tiền
đầu tiên ở nước ta là Thiên Đức thông bảo đúc năm 544 đời Lý Nam Đế (hoàng đế
đầu tiên với tên nước là Vạn Xuân)
Một quan tiền tốt mang đi
Nàng mua những gì mà tính không ra ?
Thoạt tiên mua 3 tiền gà
Tiền rưỡi gạo nếp với 3 đồng trầu
Trở lại mua 6 đồng cau
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau 10 đồng
Có gì mà tính chẳng thông
Tiền rưỡi gạo tẻ, 6 đồng chè tươi
30 đồng rượu chàng ơi
30 đồng mật, 20 đồng vàng
Hai tỉn nước mắm rõ ràng
Hai bảy mười bốn kẻo chàng hồ nghi
Hai mốt đồng đậu nấu chè
Mười đồng nải chuối chẳn thì môt quan
Đơn vị tính là đồng tiền
đúc bằng kẽm (gọi là 1 đồng tiền hoặc 1 trự tiền); cứ 60 trự (hay đồng) xâu lại
thành 1 tiền, 10 tiền là 1 quan ( Một bài ca dao khác cũng ghi nhận: Một quan là 600 đồng , chắt chiu ngày tháng cho chồng đi thi).
Nếu dựa theo đồng tiền
đầu tiên của triều Nguyễn "Gia Long thông bảo" mà mặt sau có ghi cân
lượng (thất phân - 1 phân = 0,3905gr tức 1 đồng phải x 7 là = 2,7335gr). Cứ
tưởng tượng (so sánh khập khểnh môt chút) 1 đồng kẽm có sức
mua tương đương 1000 đồng vnd hiện nay thì con gà có giá 180 ngàn, nếp 90 ngàn, trầu
3 ngàn, cau 6 ngàn, miếng thịt 90 ngàn…buổi đi chợ (Tết ?!) trên trị giá 600 ngàn ( khoảng 25usd hoặc 40 aud) và thay vì chỉ mang theo vài tờ giấy bạc hoặc chạm thẻ thì người xưa phải mang 600 miếng tiền kẽm xâu lại, nặng gần 1,64kg !
Hệ thống xài và tính tiền như vậy đã cáo chung
sau Bảo Đai thông bảo của ông vua phong kiến cuối cùng nước Việt.
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
Lời than trách duyên
phận lỡ làng của cô gái do anh chàng chậm chạp đánh mất cơ hội thời gian đươc
nhấn mạnh ngay ở câu đầu tiên là chỉ vì giá trị "ba đồng" không được
hiện thực hóa kịp lúc bằng mớ trầu cay thành ra mất nhau vĩnh viễn. Có lẽ bài ca dao này tồn tại cùng thời hoặc không xa lắm với
bài ca dao trên do mớ trầu cũng có giá ba đồng (?!)…
Vùng sông nước miền Nam thỉnh
thoảng đâu đó vẫn còn ngân nga câu hát ru
em:
Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa
Đò đưa một chuyến năm tiền
Đưa luôn hai chuyến trả liền một quan!
Lại
so sánh (khập khiểng lần nữa!) với sức mua như bài đi chợ thì đi thăm “bậu” thật
là “hao” lắm!!
Khoảng thế kỷ 16, người
phương Tây đã có giao thương với Việt Nam; phương tiện để thanh toán việc mua bán ngoài những đồng
xu, kim ngân như thỏi bạc, nén vàng... còn là những đồng tiền ngoại thương bằng
bạc của một số nước mà trong đó thông dụng nhất là đồng Mexicana của Tây ban
nha (có lẽ có vị thế như đồng dollar Mỹ thời nay); dân ta gọi đó là "điểu
ngân", "bạc con cò" có dập hình chim ó ngậm
con rắn
. Đồng Mexicana này có lưu dấu vào đời sống đương thời; hãy nghe
một anh chàng khẳng định rất nghiêm túc trong chuyện hôn nhân:
Cưới em bằng bạc con cò
Đâu phải hẹn hò nói chuyện đẩy đưa
Mà cũng có “em” nào đó trong ca dao đương thời lên tiếng
trách những “anh” ra hợp tác với chính quyền Pháp thuộc:
Anh ham chi bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ theo phò Lang sa …
THẾ GIỚI KIM TIỀN
Dù là tiền nào thì cũng phải có đơn vị để tính toán; tiền Việt xưa gọi 1 miếng tiền kẽm là 1 trự hay 1 đồng ; sau này từ ‘đồng’ thông dụng, từ ‘trự’ không thấy dùng nữa (nếu có thì chỉ còn dùng để chỉ đơn vị không phải là tiền và có nét nghĩa châm biếm, thí dụ: Tôi đặt bẩy chuột và 2 trự đã dính bẩy !?) ; có lẽ đồng là kim loại phổ biến nhất trong việc đúc tiền xưa nên sau này dù được đúc bằng vàng, bạc hay kẽm, sắt mạ, nickel, nhôm hoặc in bằng giấy thì vẫn gọi là "đồng"
Có một dạo thời Pháp thuộc đơn vị tính được gọi là
"bạc" (5 bạc, 20 bạc, 100 bạc…mà dân gian gọi là bạc con công, oảnh,
bộ lư), cũng có người quen dùng từ "đồng bạc" nhưng từ
"đồng" đã khẳng định vị thế không những với tiền tệ trong nội địa mà còn được dùng làm
từ chính trong ngữ chỉ tiền nước khác (đồng đô Mỹ – USD, đồng bảng - GBP, đồng yen - JPY, đồng euro - EUR, đồng đô Úc AUD…; những
đồng tiền mạnh thường có biểu tượng riêng (‘logo’ USD - $ , JBP - £, JPY- ¥, EUR - €…; trước 1975, tiền
VNCH có biểu tượng chữ S ngược có hai gạch song song hơi giống biểu tượng dolla
Có tiền rồi, lại thơ thẩn
với xuân thôi :
…Ai
đem gửi tuổi vào năm
Để cho ngày tháng
trầm ngâm trôi hoài
Thiêng liêng khoảnh
khắc giao thừa
Bỗng chốc mừng được
một ngày - một năm
Còn
ai đang tuổi trăng rằm
Bâng khuâng vì một nốt trầm
của xuân
Bâng khuâng vì một người…dưng
Mèn ơi!
Tết
của chúa Xuân đã về…
( TẾT
CỦA CHÚA XUÂN - Ngọc Hùng)
Năm mới Ất Tỵ Con rắn không chân nó đi năm rừng bảy rú…, chúc bạn luôn năng động, dồi dào tiền bạc mà không vướng víu
gì vào các sự “tệ, bạc” của kim tiền. Hi..hi…!
Vui vui ba ngày Tết, có gì sơ sót xin bạn đọc
lượng thứ. Đa tạ !