NAM
TRUNG BỘ - HƯƠNG KHOA THỜI NHÀ NGUYỄN
VÙNG ĐẤT NAM TRUNG BỘ
Nam Trung Bộ là dải đất
phần nam của MiềnTrung, chạy dài từ đèo Hải Vân đến bãi bồi Bình Châu. Địa danh
lâu đời nhất là Quảng Nam. Có thể nói Nam Trung Bộ là Quảng Nam thừa tuyên “mở rộng”.
Theo dòng lịch sử … Năm
1471 sau cuộc viễn chinh toàn thắng, vua Lê Thánh Tông chiếm đất Đồ Bàn (Bình Định),
đặt cùng Đại Chiêm, Cổ Lũy làm đạo Quảng Nam.
Trước đó … Năm 1306 đời
nhà Trần, vua Chế Mân đã dâng hai châu Ô - Lý để cưới công chúa Huyền Trân.
Lãnh thổ Châu Ô từ sông Ô Lâu đến bờ bắc sông Thu Bồn. Năm 1402 Hồ Quý Ly bắt
vua Chiêm dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi) rồi chia làm châu
Thăng, châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa.
Và về sau … Năm 1578 chúa
Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân bạt phá “Thành Hồ” thủ phủ vùng Aryaru
(Phú Yên), năm 1597 đưa lưu dân vào định cư, năm 1611 chính thức lập phủ Phú
Yên, lệ vào Quảng Nam thừa tuyên.
Vậy, Quảng Nam thừa tuyên là Nam Ngãi Bình Phú hiện nay, có diện tích hơn 28.000 km2, chiếm phần rộng lớn trong hai trấn Thuận - Quảng dưới quyền cai trị của Nguyễn Hoàng từ sông Gianh đến núi Đá Bia, nơi chúa cho rằng địa thế sông núi hiểm trở vững bền: “Núi sẵn vàng sắt, biển nhiều cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng”. Giấc mộng mở mang cõi Nam Hà riêng núi riêng sông của chúa Tiên đã hoàn thành.
Tiếp theo … Năm 1653 chúa
Nguyễn Phước Nguyên sai Cai cơ Hùng Lộc và Xá sai Minh Võ lập dinh Thái Khang
(Khánh Hòa). Năm 1693 chúa Nguyễn Phước Chu sai Tổng binh Nguyễn Hữu Cảnh lập
Thuận phủ, năm sau đổi là Thuận Thành (Ninh Thuận). Năm 1697 Quốc chúa đặt phủ
Bình Thuận
Như thế, công cuộc mở cõi
để có dải đất Nam Trung Bộ kéo dài gần 400 năm, từ 1306 đến 1697, sáp nhập vào
nước Việt hơn 44.000km2.
Năm 1744 chúa Nguyễn Phước
Khoát cho rằng lời sấm có nói “Tám đời trở lại trung đô” lên ngôi vương, châm
chước chế độ các đời, đổi y phục, thay phong tục, định thứ bậc quan chức văn
võ, chia đặt các đơn vị hành chánh toàn cõi làm 12 dinh và 1 trấn. Chính dinh
Phú Xuân gọi là Đô thành. Phần đất Nam Trung Bộ có 4 dinh: dinh Quảng Nam (gồm
cả hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn lệ vào), dinh Phú Yên, dinh Bình Khang, và
dinh Bình Thuận.
Đến đời nhà Nguyễn đơn vị
hành chánh có khi gọi là trấn, là dinh, là đạo, sau cùng thống nhất gọi là tỉnh.
Nam Trung Bộ có 7 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận.
VIỆC HỌC VÀ THI
Thời chúa Nguyễn đã tổ chức
việc học và thi tại lãnh thổ Nam Hà, nhưng đến đời nhà Nguyễn mới theo quy củ.
*-Trường học:
Mỗi tỉnh đều có trường học
cấp tỉnh. Và các trường cấp phủ, huyện.
-Tỉnh Quảng Nam: Trường
phủ Điện Bàn, trường phủ Thăng Bình.
-Tỉnh Quảng Ngãi: Trường
huyện Bình Sơn, trưởng huyện Mộ Đức.
-Tỉnh Bình Định: Trường
phủ Hoài Nhơn, trường phủ An Nhơn, trường huyện Phù Mỹ, trường huyện Phù Cát,
trường huyện Tuy Phước.
-Tỉnh Phú Yên: Trường phủ
Tuy Hòa, trường huyện Đồng Xuân, trường huyện Sơn Hòa.
-Tỉnh Khánh Hòa: Trường
phủ Diên Khánh, trường phủ Ninh Hòa, trường huyện Vĩnh Xương, trường huyện Tân
Định.
-Tỉnh Bình Thuận: Trường
phủ Hàm Thuận, trường huyện Hòa Đa.
-Tỉnh Ninh Thuận: Lúc đầu
(khi chưa được thăng thành tỉnh) là trường phủ Ninh Thuận.
*-Trường thi:
Các trường thi hương mở từ
năm 1807 (Gia Long thứ 6) đến 1918 (Khải Định thứ 3).
Thí sinh các tỉnh Nam
Trung Bộ thi tại các trường: Thừa Thiên (lúc đầu gọi là trường Quảng Đức, trường
Trực Lệ), Gia Định, Bình Định (từ năm 1852), An Giang (1864).
Vua Gia Long có lệnh cho các
tỉnh từ Phú Yên đến Bình Thuận sĩ tử đi thi hương được cấp lương theo hành
trình.
*-Thành phần thí sinh:
Đối chiếu với danh sách
các vị đậu Cử nhân, thí sinh thuộc các thành phần: - Đã đậu Tú tài – Giám sinh - Ấm sinh – Học sinh - người Minh
Hương - người gốc Chăm…
*-Số vị đậu đạt qua các khoa thi:
Cả các tỉnh Nam Trung Bộ
là 667 vị Cử nhân. Các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định chiếm số đông. Quảng
Nam trên 35,6%, Quảng Ngãi trên 19,7%, Bình Định trên 35,9%.
Một số vị tiếp tục thi Hội.
Có 39 vị đậu các thứ bậc Hoàng giáp, Tiến sĩ, Phó bảng. Thêm một trường hợp đặc
biệt: ông Trần Quý Cáp, Tú tài được đặc cách cho thi Hội, đậu Tiến sĩ, cùng
khoa với Huỳnh Thúc Kháng (1904). (Do vậy tên ông không có trong danh sách
Hương khoa).
Khoa thi Hội năm 1898 tỉnh
Quảng Nam có 5 vị đại khoa: 3 Tiến sĩ (Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn), 2 Phó
bảng (Ngô Chuân, Dương Hiển Tiến) được vua Thành Thái ban tặng “Ngũ phụng tề phi”
Phần đông các vị đều làm
quan. Từng trường hợp biết bao thăng trầm, như ghi trong Quốc triều Hương khoa lục.
Một số vị quyền cao chức
trọng, lên đến Thượng thư, Tổng đốc…
Ông Trương Đăng Quế, người
xã Mỹ Khê huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, Cử nhân năm 1819, lên đến Cần Chánh
điện Đại học sĩ, là cố mệnh lương thần, chết được tùng tự ở Thế miếu.
Ông Võ Duy Ninh người xã
Đại An huyện Chương Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi đậu Cử nhân năm 1834, Hộ đốc Gia Định,
tuẫn tiết. Ông Hoàng Diệu người xã
Xuân Đài huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam, Cử nhân năm 1848, Phó bảng năm 1853,
Tổng đốc Hà Ninh, tử tiết.
Có vị tại chức đến khi hưu
trí. Ông Đoàn Khắc Nhượng người xã Nhơn Hòa huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi Cử
nhân năm 1846 Tuần phủ Quảng Ngãi làm
quan có tiếng là liêm khiết. Cũng có vị khi hoạn lộ đang thông
suốt xin về vui thú điền viên.
Có vị đang làm quan xin
nghỉ về nuôi cha mẹ: ông Lê Đĩnh người xã Đông Mỹ huyện Diên Phước tỉnh Quảng
Nam Cử nhân năm 1870, làm Tổng đốc Hà Nội -
ông Dương Đình Thọ người xã Tuyết Diêm huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi đang
làm Tri phủ … và một số vị khác cũng xin nghỉ với lý do tương tự.
Có vị bị giáng. Có vị bị tội
phải đi hiệu lực rồi được phục chức thấp hơn. Có vị sách ghi là “bị miễn”, “bị
cách”, “bị tội”, “can án”.
Một số vị sau buổi vinh
quy chưa được bổ nhiệm làm quan đã qua đời:
ông Đỗ Trứ người xã Vạn Thiện huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, Cử nhân năm 1855 –
ông Dương Hiển Tiến người xã Cẩm Lâu huyện Diên Phước phủ Điện Bàn tỉnh Quảng
Nam, Cử nhân năm 1891, Phó bảng năm 1898 … và một số vị khác...
Nói về các vị bất đồng
chính kiến với triều đình nhà Nguyễn, chống lại chế độ thực dân Pháp, quan điểm
của soạn giả thể hiện trong đoạn ngắn ghi “tiểu sử”. Ông Nguyễn Duy Hiệu người
xã Thanh Hà huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam, Cử nhân năm 1876, Phó bảng năm
1879, Hồng lô tự khanh “nhân có biến, tụ
tập dân chúng, can trọng án” –
Ông Mai Xuân Thưởng người thôn Phú Lạc huyện Tuy Viễn tỉnh Bình Định, Cử nhân
năm 1885, “lúc tỉnh thành có biến, tập họp
thân hào, can trọng án” - Ông Huỳnh Thúc Kháng người xã Thạnh Bình huyện Hà
Đông tỉnh Quảng Nam, Cử nhân năm 1900, Tiến sĩ năm 1904, “can tội” - Ông Phan Châu Trinh người xã Tây Lộc huyện Hà Đông tỉnh
Quảng Nam, Cử nhân năm 1900, Phó bảng năm 1901 “can tội, bị truy nã”.
Ngoài các phụ chú nêu
trên, để khuyến khích việc học, nhiều trường hợp được biểu dương khi: ông cháu,
cha con, anh em, bác cháu, chú cháu… lần lượt thi đậu và anh em ruột cùng đậu một
khoa thi.
*-Các vị khai khoa từng địa phương:
Do hoàn cảnh khác nhau, số
người ứng thí tại mỗi tỉnh có khác nhau về thời gian và trường thi. Sau đây là
các vị khai khoa:
-Tỉnh Quảng Nam: Ông Nguyễn Văn Thành, đậu Cử nhân năm 1819 (Gia Long
thứ 18) tại trường thi Trực Lệ, vị thứ 3/17.
-Tỉnh Quảng Ngãi: Ông Trương Đăng Quế, cùng đậu năm
1819 tại trường Trực Lệ, vị thứ 9/17.
-Tỉnh Bình Định: ông Huỳnh Văn Minh, đậu năm 1821 (Minh Mạng thứ 2)
tại trường thi Trực Lệ, vị thứ 18/25.
-Tỉnh Phú Yên: ông Lê Đức Ngạn, đậu năm 1821 tại trường thi Gia Định,
vị thứ 16/16.
-Tỉnh Khánh Hòa: ông Trần Văn Tú, đậu năm 1813 (Gia Long thứ 12) tại
trường thi Quảng Đức, vị thứ 9/9.
-Tỉnh Ninh Thuận: ông Phan Cư Chánh (Phan Trung) đậu năm 1841 (Thiệu
Trị nguyên niên) tại trường thi Gia Định, vị thứ 8/15.
-Tỉnh Bình Thuận: ông Đinh Hưng Thiệu, đậu năm 1825 (Minh Mạng thứ
6) tại trường thi Gia Định, vị thứ 10/15.
*-Các vị thủ khoa các kỳ thi:
Các vị người các tỉnh Nam
Trung Bộ đậu thủ khoa từng khoa thi:
-Tỉnh Quảng Nam:
Ông Phạm Phú Thứ, thủ
khoa trường thi Thừa Thiên năm 1842 (Thiệu Trị thứ 2), đến năm 1843 đậu Hội
nguyên Tiến sĩ.
Ông Lê Vĩnh Khánh, thủ
khoa trường thi Thừa Thiên năm 1843 (Thiệu Trị thứ 3), đến năm 1844 đậu Phó bảng.
Ông Nguyễn Hanh, thủ khoa
trường thi Thừa Thiên năm 1852 (Tự Đức thứ 5).
Ông Phạm Liệu, thủ khoa
trường thi Thừa Thiên năm 1894 (Thành Thái thứ 6), đến năm 1898 đậu Tiến sĩ.
Ông Huỳnh Thúc Kháng, thủ
khoa trường thi Thừa Thiên năm 1900 (Thành Thái thứ 12), đến năm 1904 đậu Hội
nguyên Tiến sĩ.
-Tỉnh Quảng Ngãi:
Ông Nguyễn Luật, thủ khoa
trường thi Bình Định năm 1868 (Tự Đức thứ 21).
Ông Trương Đăng Tuyển, thủ
khoa trường thi Bình Định năm 1870 (Tự Đức thư 23).
Ông Phạm Văn Hành, thủ
khoa trường thi Bình Định năm 1876 (Tự Đức thứ 29), đến năm 1877 đậu Phó bảng.
Ông Bùi Phụ Truyền, thủ
khoa trường thi Bình Định năm 1879 (Tự Đức thứ 32).
Ông Trần Cư, thủ khoa trường
thi Bình Định năm 1882 (Tự Đức thứ 35).
Ông Phạm Văn Chất, thủ
khoa trường thi Bình Định năm 1884 (Kiến Phúc thứ 1).
Ông Dương Huy, thủ khoa
trường thi Bình Định năm 1894 (Thành Thái thứ 6).
Ông Phạm Hào, thủ khoa
trường thi Bình Định năm 1897 (Thành Thái thứ 9).
Ông Tạ Hàm, thủ khoa trường
thi Bình Định năm 1900 (Thành Thái thứ 12).
Ông Trần Phan, thủ khoa
trường thi Bình Định năm 1912 (Duy Tân thứ 6).
Ông Phạm Trinh, thủ khoa
trường thi Bình Định năm 1918 (Khải Định thứ 3).
-Tỉnh Bình Định:
Ông Lê Doãn Xuân, thủ
khoa trường Thừa Thiên năm 1837 (Minh Mạng thứ 18).
Ông Trần Văn Chánh, thủ
khoa trường Thừa Thiên năm 1840 (Minh Mạng thứ 21), đến năm 1842 đậu Tiến sĩ.
Ông Cao Văn Tuấn, thủ
khoa trường Bình Định năm 1852 (Tự Đức thứ 3).
Ông Nguyễn Đăng Tuyển, thủ
khoa trường Bình Định năm 1855 (Tự Đức thứ 8).
Ông Nguyễn Duy Lộc, thủ
khoa trường Bình Định năm 1858 (Tự Đức thứ 11).
Ông Lê Đăng Đệ, thủ khoa
trường Bình Định năm 1867 (Tự Đức thứ 20).
Ông Lê Văn Phái, thủ khoa
trường Bình Định năm 1873 (Tự Đức thứ 26).
Ông Nguyễn Khởi, thủ khoa
trường Bình Định năm 1878 (Tự Đức thứ 31).
Ông Lê Thân, thủ khoa trường
Bình Định năm 1885 (Hàm Nghi thứ 1).
Ông Lê Dương, thủ khoa
trường Bình Định năm 1891 (Thành Thái thứ 3).
Ông Lê Đức Dĩnh, thủ khoa
trường Bình Định năm 1903 (Thành Thái thứ 15).
Ông Lê Truân, thủ khoa
trường Bình Định năm 1906 (Thành Thái thứ 18).
Ông Lê Trình Thoại, thủ khoa
trường Bình Định năm 1909 (Duy Tân thứ 3).
Ông Đặng Thành Đôn, thủ
khoa trường Bình Định năm 1915 (Duy Tân thứ 9).
Trường thi Bình Định lập
năm 1852, dành cho các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
Liên tiếp trong 3 kỳ thi đầu tiên vị thứ thủ khoa
thuộc về thí sinh Bình Định (ông Cao Văn Tuấn khoa 1852, ông Nguyễn Đăng Tuyển
khoa 1855, ông Nguyễn Duy Lộc khoa 1858). Có câu ca dao: “Cảm thương Quảng Ngãi đường xa. Để cho Bình Định thủ khoa ba lần”.
Khoa tiếp theo, 1867 Bình Định lại thủ khoa, lần thứ tư (ông Lê Đăng Đệ).
Hai khoa sau đó Quảng
Ngãi giành vị thứ thủ khoa (ông Nguyễn Luật khoa 1868, ông Trương Đăng Tuyển
khoa 1870). Bây giờ ca dao nói: “Tiếc
công Bình Định xây thành. Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa”.
*-Các vị Cử nhân trẻ tuổi: (đậu lúc 18 đến 25 tuổi)
-Tỉnh Quảng Nam: 18 vị.
Đậu lúc 18 tuổi: 1).ông
Cao Tường đậu năm 1906.
Đậu lúc 19 tuổi: 1).ông
Võ Hy Lượng đậu năm 1894.
Đậu lúc 21 tuổi: 1).ông
Hà Ngải đậu năm 1912 – 2).ông Trần Nhã Diệm đậu năm 1915.
Đậu lúc 22 tuổi: 1).ông
Phạm Liệu, 2).ông Phan Quang, 3).ông Ngô Trân - cùng đậu năm 1894.
Đậu lúc 23 tuổi: 1).ông Đặng
Lương đậu năm 1894 -2). ông Mai Dị đậu năm 1906 – 4).ông Phan Đình Chi đậu năm
1915.
Đậu lúc 24 tuổi: 1).ông
Lê Hoàn đậu năm 1894 - 2).ông Nguyễn Mậu Hoán đậu năm 1900 - 3).ông Lê Cảnh đậu năm 1903 – 4).ông Phan
Vĩnh đậu năm 1906 – 5).ông Phạm Phú Tiết đậu năm 1918.
Đậu lúc 25 tuổi: 1).ông
Huỳnh Thúc Kháng đậu năm 1900 – 2).ông Lê Trí Hiển đậu năm 1903 – 3).ông Nguyễn
Phan đậu năm 1909.
-Tỉnh Quảng Ngãi: 7 vị
Đậu lúc 20 tuổi: 1).ông
Nguyễn Thuyên đậu năm 1906.
Đậu lúc 21 tuổi: 1).ông Tạ
Hàm đậu năm 1900 – 2).ông Phạm Trinh đậu năm 1918.
Đậu lúc 22 tuổi: 1).ông
Lê Văn Duy đậu năm 1918.
Đậu lúc 23 tuổi: 1).ông
Võ Thiếu Trinh đậu năm 1900.
Đậu lúc 24 tuổi: 1).ông
Bùi Phụ Nghiệp đậu năm 1928.
Đậu lúc 25 tuổi: 1).ông
Trần Nguyễn Thiệp đậu năm 1906.
-Tỉnh Bình Định: 11 vị
Đậu lúc 18 tuổi: 1).ông
Trần Quý Hàm đậu năm 1906.
Đậu lúc 20 tuổi: 1).ông Tạ
Chương Phùng đậu năm 1918.
Đậu lúc 21 tuổi: 1).ông
Trần Đình Tân đậu năm1915.
Đậu lúc 22 tuổi: 1).ông
Đinh Trọng Cát đậu năm 1894 – 2).ông Trần Lê Hàm đậu năm 1900 – 3).ông Trần Văn
Luân đậu năm 1906
Đậu lúc 23 tuồi: 1).ông Hồ
Sĩ Đạo đậu năm 1900 – 2).ông Lê Truân đậu năm 1906
Đậu lúc 24 tuổi: 1).ông
Võ Huyên đậu năm 1900.
Đậu lúc 25 tuổi: 1).ông
Võ Đình Phương – 2).ông Đỗ Xuân Yêm - cùng đậu năm 1915.
-Tỉnh Phú Yên : 3 vị
Đậu lúc 19 tuổi: 1).ông
Lê Hoàng Hà đậu năm 1918.
Đậu lúc 22 tuổi: 1).ông
Nguyễn Bá Côn đậu năm 1894.
Đậu lúc 25 tuổi: 1).ông
Trần Đình Hiến đậu năm 1918.
Cộng Nam Trung Bộ: 39 vị.
(Không có số liệu các khoa thi trước hơn).
*-Cử nhân cao
tuổi:
Ngày xưa 50 tuổi đã …
già! Ở Nam Trung Bộ các vị cao tuổi ít đi thi Hương.
Ông Tú tài Phan Ý người
xã Hiếu Đức huyện Tuy Viễn tỉnh Bình Định đậu Cử nhân năm 1900 lúc 50 tuổi.
Trong khi Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ không ít vị đậu Cử nhân lúc trên 50 tuổi. Ông Tú tài Nguyễn Sư Hoàng
người xã Bình Vọng huyện Thượng Phú tỉnh Hà Đông đậu Cử nhân năm 1906 lúc 55 tuổi
(…) Cao tuổi hơn là: Ông Nguyễn Duy Thanh người xã Vương Quang huyện Thụy Nguyên
tỉnh Thanh Hóa đậu Tú tài năm khoa, đến năm 1900 đậu Cử nhân trường Thanh Hóa lúc
75 tuổi - Ông Vũ Đình Thự người xã Bình Cách huyện Đông Quan tỉnh Thái Bình đậu
Cử nhân trường Hà Nội năm 1900 lúc 84 tuổi.
*
Nhìn lại một thời đã qua, cũng là “ôn cố tri tân” để
liên hệ với hôm nay, đặt niềm hi vọng tương lai, mỗi ngày một vượt lên cao hơn,
vươn tới xa hơn…
TRẦN HUIỀN ÂN
TƯ LIỆU THAM KHẢO
-Cao Xuân Dục – Nguyễn
Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch (1993) – Quốc
triều hương khoa lục – NXB TP.HCM
-Trần Trọng Kim (1971) – Việt Nam sử lược – NXB Trung tâm Học liệu
Bộ Giáo Dục - SG
-Quốc sử quán triều Nguyễn
– Bản dịch Viện Sử học (2004) – Đại Nam thực
lục tập một: tiền biên – chính biên đệ nhất kỷ - NXB Giáo Dục –
HN
-Quốc sử quán triều Nguyễn
– Phạm Trọng Điềm dịch (2006) – Đại Nam
nhất thống chí tập 1, 2, 3, 4, 5 – NXB Thuận Hóa – Huế