Nhà thơ Hà Huyền Chi có tên thật Đặng Trí Hoàn, sinh ngày 21/12/1935 tại Hà
Đông, Hà Nội. Năm 1954 một mình đi vào Nam. Năm 1957 nhập ngũ theo đời binh
nghiệp (Võ bị QG Đà Lạt), năm 1975 qua Mỹ và hiện cư ngụ tại Washington State,
vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.
Hà Huyền Chi tập làm thơ hồi còn rất trẻ, tác phẩm đầu tay của ông là “Saut”
Đêm xuất hiện vào năm 1963. Đến nay ông đã in 22 tập thơ, 8 truyện dài. (Giải
thưởng Văn Học Nghệ Thuật bộ môn Thơ, 1971). Đóng 8 phim và đạo diễn 2 phim (Giải
Tượng vàng 1972, Đạo diễn xuất sắc nhất cho bộ môn phim tài liệu). Ông còn dùng
nhiều bút hiệu khác như : Mậu Binh, Hồ An, Mã Tử, Hạc Bút Ông… Cũng tính đến
nay, ông đã có 409 bản nhạc phổ thơ từ 48 nhạc sĩ. Nhưng nhạc phẩm được nhiều
người ưa thích nhất là bài “Lệ Đá” do Trần Trịnh soạn nhạc và ông đặt lời, và
bài “Goá Phụ Ngây Thơ” doTrần Thiện Thanh phổ nhạc sau này.
Tác phẩm Hà Huyền Chi đã xuất bản gồm Saut Ðêm (1963), Còn Gì Cho Anh, Khu Vườn
Chim Sẻ, Những Nụ Gai Mòn, Rừng Ái Ân, Vũng Tối Ðầy (1970), Bước Ðam Mê, Mưa
Ðêm Trong Chiến Hào (1971), Trên Cánh Ðồng Mây, Cho Mặt Trời (1975), Tên Nô Lệ
Mới (1979), Như Ðá Ngàn Năm (1981), Cõi Buồn Trên Ta (1984), Ðời Bỗng Dưng Thừa
(1987), Không Gian Vương Dấu Giày (1988), Hành Trình 30 Năm Thơ Hà Huyền Chi,
Thơ Ðen (1991), Thơ Kẽm Gai, Tháng Một Buồn (1994), Thơ Trong Da Ngựa 1995), Một Túi Bình Sinh Một Túi Thơ, Ðồng Thiếp
(1996), Bão Ðầy (1998), Bên Trời Mài Kiếm (thơ song ngữ-Anh,Việt 1999)
Theo nhà thơ Hà Huyền Chi cho biết, do tình cờ khi ông còn ở binh chủng Nhẩy Dù
ông đã viết nhiều truyện ngắn và thơ. Có bài thường xuyên đăng trên báo quân đội,
nên nhẩy vào nghề
báo chí rồi nhẩy vào điện ảnh như một thử thách, vì có lúc ông làm phụ tá trưởng
phòng Điện ảnh của cục Tâm Lý Chiến. Làm Đạo diễn trong Đạo diễn đoàn thuộc Nha
Điện Ảnh của Bộ
Thông Tin.
Nhà thơ Hà Huyền Chi vốn mê thơ, nên từ lúc ông còn đi học đã tập làm thơ, do
nghĩ rằng làm thơ là lối đi dễ nhất để vào thế giới văn chương. Tuy nhiên theo
ông tâm sự, để đi vào đường
văn chương, bước đầu người ta nên tập viết truyện dài, sau đó tập viết truyện
ngắn. Cuối cùng mới nên tập làm thơ, bởi thơ vốn là đỉnh cao nhất của văn
chương. Còn ông đã đi ra khỏi cái quy luật thứ tự đó.
Có người thống kê, nhà thơ Hà Huyền Chi là thi sĩ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất
và người phổ thơ ông nhiều nhất là nhạc sĩ Mai Anh Việt, với 65 bài. Vì thế có
người nhận xét “thơ Hà Huyền Chi mang nhiều chất nhạc”. Có lẽ khi ông làm thơ
đã có ý niệm đem phổ nhạc, ý niệm này xuất phát từ khi nhạc phẩm “Lệ Đá” được
ông đặt lời sau bản nhạc chưa lời của Trần Trịnh.
Luận về người làm văn chương – nghệ thuật Khi nói về những người đang làm văn
chương nghệ thuật hôm nay, theo nhà thơ Hà Huyền Chi cho biết :
– “Trước hết, chúng ta đang có tình trạng lạm phát số người muốn tự khoác cho
mình chiếc áo thi sĩ, nhạc sĩ. Nhiều người đã tự bỏ tiền ra in thơ hay nhạc, mà
trong lúc chưa nắm vững được kỹ thuật căn bản, nhập môn. Của niêm luật, vần điệu,
thanh iệu, hợp âm và phối âm.
“Tình trạng trăm hoa đua nở này không có lợi cho sự tiến hóa chung của hai bộ
môn nghệ thuật này. Nếu không muốn nói là có hại. “Chúng ta hãy thử tưởng tượng,
trên bất kỳ một sân khấu nào, ai cũng có quyền nhẩy lên ca, ngâm bạt mạng, thì
sớm muộn gì cũng giết chết các sinh hoạt này”.
Rồi nhà thơ tâm sự tiếp : là một người thích sưu tập về thơ collection, chưa là selection) mà ông không có
cách gì mua được cho đầy đủ những thi tập được ấn hành ở hải ngoại. Có thể
nói, mỗi tuần đều có “thi tập” mới ra lò. Về âm nhạc cũng vậy, các CD nhạc đang
ở mức độ lạm phát, tràn ngập thị trường từ VN đem sang ở hải ngoại ấn hành. Nếu
không nói các CD “thượng vàng hạ cám” đều xuất hiện hàng ngày. Chưa kể “trận giặc
hạ giá” của các CD sản xuất từ VN gửi sang, đã tàn phá thị trường ca, ngâm. Có
lẽ vẫn còn tình trạng lạm phát này dài dài.
CD hải ngoại bây giờ khó tiêu thụ, vì bây giờ gặp nạn các ca nghệ sĩ thường làm giá quá đáng, đòi “cát-sê”
cao ngất từ 3 tới 5 ngàn đô cho một bài hát thâu âm, đang giết chết giới sản xuất.
Giống như giới tài tử điện ảnh Mỹ đòi thù lao vài chục triệu đô cho mỗi phim,
khiến hàng loạt các rạp chiếu phim phá sản vì giá vé cao. Cũng thế, ca sĩ hải
ngoại đòi thù lao từ 3 tới 5 ngàn đô
cho một bài hát thâu âm. Khiến giá bán một CD quá cao so với giá CD sản xuất từ
VN, cho nên vẫn còn bế tắc, nan giải chưa thấy “ánh sáng cuối đường hầm”.
Nói về nhạc phẩm Lệ Đá trước đây, nhà thơ Hà Huyền Chi cho biết :
Ngó lui mấy chặng đường Lệ Đá – Nhạc phẩm “Lệ Đá” trước hết không phải là một
bài thơ phổ nhạc. Phải nói là tôi đã đặt lời
cho bản nhạc (vốn không tên) của nhạc sĩ Trần Trịnh. Do một cơ duyên đặc biệt,
do người bạn tên Đông chơi Clarinet, giới thiệu Trần Trịnh đến với tôi, khi đó
Trần Trịnh (giữa thập niên 1960) chưa có nhiều tiếng tăm trong làng tân nhạc thời
bấy giờ :
– Nhạc
Trần Trịnh khá lắm, nhưng rất ít người biết đến. Xin anh giúp thằng bạn em một
lần, đặt lời ca giùm cho nó.
Tôi liền lắc đầu : “Em biết là anh vốn mù nhạc mà !”
– Em biết chứ, nhưng em thành thực nghĩ rằng chỉ có anh mới giúp được nó.
Còn Trần Trịnh cười hiền lành nói thêm :
– Xin anh giúp cho. Tôi nghĩ là sẽ có cách…
Bấy giờ tôi thẳng thắn đặt điều kiện :
– Nể thằng em, coi như tôi chấp thuận trên nguyên tắc. Tuy nhiên, tôi cần nghe
anh đàn bản nhạc này vài lần để có khái niệm về nhạc tính. Và tôi cũng cần ý kiến
thẩm định về nhạc thuật của bài này như Dzương Ngọc Hoán (chồng của pianist, ca
sĩ Quỳnh Giao)
Chúng tôi kéo nhau lên đài phát thanh Quân Đội, Trần Trịnh ngồi vào piano. Và
điều ngạc nhiên là tôi ưa ngay cái âm hưởng buồn ngất ngây dịu nhẹ đó, rất
Pianissimo ấy. Melody thật tha thiết, ngọt ngào, bắt nhĩ. Khi ấy Đông đã kéo
Dzương Ngọc Hoán qua và Hoán khen bản nhạc này không tiếc lời, khiến tôi có
ngay quyết định giúp Trần Trịnh. Tôi nghe Trịnh đàn thêm vài lần nữa và cố gắng
nhập tâm cái âm hương của bản nhạc.
Hôm sau, tôi đem đến Trần Trịnh lời ca thứ nhất của Lệ Đá. Kết quả ngoài sức tượng
tượng, là không biết bằng cảm hứng nào đó, tôi đã hòa được cái rung cảm đích thực
của thơ tôi vào nhạc Trần Trịnh. Trần Trịnh mừng rỡ tới sững hồn. Anh và Hoán
cùng hân hoan hát Lệ Đá khiến tôi cũng choáng ngợp trong niềm vui.
Lập tức tôi viết lời 2. Buổi trưa nắng gắt, dưới mái tôn thấp lè tè của quán
cơm lính trong trại.
Trên chiếc bàn bọc nhôm nóng bỏng, cáu bẩn, tôi thả hồn bay với Lệ Đá. Tôi viết
thật dễ dàng, và khóc cũng dễ dàng với lời 2 này.
Tôi cứ vừa viết vừa khóc thế đó, như khi ngồi chép lại những dòng nàỵ Tôi bỏ dở
bữa ăn, đem lời 2 lên đài Quân Độị gặp Nhật Trường trước phòng vi âm. Tôi đưa Lệ
Đá ra khoe, Nhật Trường hát ngay với nỗi hân hoan bốc lửa. Hắn túm ngay lấy Trần
Trịnh đòi soạn cấp kỳ hoà âm cho ban nhạc và 2 bè khác cho Mai Hương, Như Thủy
ca. Khoảng nửa giờ sau Lệ Đá được thâu cấp kỳ. Nhật Trường, Mai Hương, Như Thủy,
mỗi nguời trên tay một
bản Lệ Đá “mì ăn liền” say mê hoà ca với nỗi xúc động đồng thiếp. “Take one
Good take !” Hát và thâu hoàn chỉnh ngay lần thứ nhất.
Nhật Trường như bay ra khỏi phòng vi âm ôm lấy tôi và Trần Trịnh :
– Ông đặt lời thần sầu. Bản này sẽ là Top Hit.
Tôi
nhún nhường:
– Top Hit được là nhờ nhạc Trần Trịnh bay bổng như diều đấy chứ.
Nhật Trường cướp lời :
– Nhưng ông là gió lớn. Đại phong mà…
Lời bài hát Lệ Đá (1) sáng tác cuối thập niên 60
Hỏi đá xanh rêu…bao nhiêu tuổi đời / Hỏi gió phiêu du…qua bao đỉnh trời / Hỏi
những đêm sâu… đèn vàng héo hắt
Ái ân… bây giờ là nước mắt / Cuối hồn một… thoáng nhớ mong manh Thuở ấy tôi
như… con chim lạc đàn / Xoải cánh cô đơn…bay trong chiều vàng / Và ước mơ sao…trời
đừng bão tố / Để yêu thương… càng nhiều gắn bó / Tháng ngày là… men say nguồn thơ
Điệp khúc
Tình yêu… đã vỗ… cánh rồi / Là hoa.. rót mật… cho đời / Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ
vãng / Em nhớ gì… không em ơi
Mầu áo thiên thanh… thơ ngây ngày nào / Chìm khuất trong mưa… mưa bay rạt rào /
Đọc lá thư xưa…một trời luyến tiếc / Nhớ môi em…và mầu mắt biếc / Suối hẹn hò…
trăng xanh đầu
non
Lời bài hát Lệ Đá (2) sáng tác cuối thập niên 60
Tượng đá kiên trinh… ru con đời đời / Là nét đan thanh… nêu cao tình người / Là
ánh chiêu dương… đẩy lùi bóng tối / Tháng năm xa… trùng trùng sóng gối / Ngóng
nhìn từ… bát ngát chân mây
Bài hát ca dao… theo tôi vào đời / Và giữ cho tim… tôi xanh nụ cười / Nào biết
trong em… còn nhiều trống vắng / Trái yêu đương… chỉ là trái đắng / Gã tật nguyền…
buông trôi niềm tin
Điệp khúc
Tình yêu… đã vỗ… cánh rồi / Là hoa… rót mật… cho đời / Chắt chiu… kỷ niệm… dĩ
vãng / Em nhớ gì… không em ơi
Tương đá kiên trinh… ôm con đợi chồng / Nhạc lá thu mưa… hay chân ngựa hồng / Lệ
đá tuôn rơi… dòng dòng nối tiếp / Ngóng chinh phu… đời đời kiếp kiếp / Suối vọng
tìm… trăng xanh đầu
non
Cái ma kiếp của một bài ca được yêu chuộng thường yểu tử, và xuống cấp. Nhưng Lệ
Đá thì không. Nó may mắn thoát khỏi định số ước lệ ấý. Vào những năm 67, 68 nhạc
phẩm “Lệ Đá” được cất tiếng thường xuyên hầu như ở khắp mọi sinh hoạt văn nghệ
mà thời kỳ này nhạc Trịnh Công Sơn đang được mọi người hâm mộ. Lệ Đá góp mặt
hàng đêm ở các phòng trà, tiệm nhảy. Lệ Đá vào khuê phòng, ra máy nước. Rồi
quán cà phê cũng Lệ Đá, phim ảnh cũng Lệ Đá với tiếng hát Khánh Ly, phim do
Thanh Nga, Đoàn Châu Mậu diễn xuất, và Bùi Sơn Duân đạo diễn.
May
sao, Lệ Đá vẫn chưa trở thành nhạc sến, nhạc đứng đường. May sao, tôi vẫn được
yên thân, bởi vẫn giữ kín cơ duyên “nhảy dù” vào nghề viết lời nhạc. Để mọi người
đều hiểu lầm rằng Trần Trịnh phổ thơ tôi.
Khi ấy tôi viết thêm lời 3 cho Lệ Đá khi đi công tác ở Sóc Trăng, Cà Mau. Nơi Rừng
Mắm của Bình Nguyên Lộc với muỗi mòng dễ nể. Nhà văn Bình Nguyên Lộc dọa, chỉ cần
quơ tay một cái là đã túm được cả chục con muỗí. Bạn bè hăm, trâu bò còn phải
ngủ trong mùng. Khách sạn tỉnh lẻ không khá gì hơn mấy quán trọ trong phim Anh
Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long. Thực khách vừa nhâm nhi, vừa quơ chưởng, đuổi muỗí.
Mới chập tối, tôi đã chui vô chiếc mùng thố.
Và buồn tình tôi viết lời Lệ Đá 3:
Lệ Đá lời 3 (Tháng 9, 1968)
Từ những đam mê… xa trong cuộc đời / Từ những cơn vui… tan theo nụ cười / Từ
phút trao đi… cuộc tình thứ nhất / Giá băng khi… tuổi hồng đã mất / Dấu bèo
chìm… khuất sóng xa khơi
Dòng tóc mây thơ… trên vai rủ mềm / Mười ngón tay em… đan trong tủi phiền / Lời
hứa cao bay… cuộc tình cút bắt / Giấc mơ hoa… đầu đời đã tắt / Có gì vừa… trôi
qua tầm tay Điệp khúc
Người đi… đi mãi… không về/ Thời gian… xoá vội… câu thề / Bóng anh… nhạt nhoà…
bóng núi / Em với tình… yêu trăng soi
Lạy chúa ngôi… ba nghe con nguyện cầu / Và giúp cho con… quên đi tình sầu / Lời
thánh ru êm… giọt đàn thống hối / Chúa trên cao… mỉm cười thứ lỗi / Những giọt
đàn… vang trong trời
tin
Sáng
hôm sau, chỉ có Chúa ngôi ba mới biết được cơn sợ hãi của tôi đến cỡ nào khi thức
giấc.
Trong mùng tôi, cả trăm con muỗi đen đủi no căng đu mình say ngủ an bình !!!
Lệ Đá lời 4 (Riêng cho Khánh Liên, tháng 4, 1975)
Chiều 27/4/1975 tôi còn cái hẹn với người tình Khánh Liên ở Thị Nghè. Tình hình
thời cuộc lúc đó biến chuyển cực nhanh, nên tôi không đến được với Khánh Liên,
tôi đã không thể thu xếp để tới chỗ hẹn, nói lời từ giã cuối cùng với nàng. Nỗi
buồn đeo cứng lấy tôi. Khi ngồi nín thở dưới hầm, khi ráng ngoi nhìn mặt sông
Lòng Tảo lần cuốí. Nhìn mặt sông cuồn cuộn đau, khi thấp thoáng nghĩ ngàn dặm sẽ
chia lìa cùng Sài Gòn, quê hương và người tình Khánh Liên…
Nên bài lời 4 này khởi viết từ tháng 4 và được hoàn chỉnh vào tháng 7/1975.
Lệ Đá lời 4
Từ nỗi xa đau… như đêm và ngày / Mỏi cánh thư bay… bay trong mùa đầy / Hòn đá
đeo trên… cuộc đời héo hắt / Mãi bơi trong… vực sầu nước mắt / Chút tình buồn…
lãng đãng men say Người lỡ chia xa… đôi bên địa cầu / Tình lỡ chia xa… hai bên
đỉnh sầu / Người đã xa khơi… cuộc tình tách bến / Chút hương xưa… làm thành vốn
liếng / Cũng cùn mòn… theo chân thời gian
Điệp khúc
Muà xanh… đã khép… mắt đời / Hè khô… nức nở… ma cười / Gió thu… liệm vàng… nỗi
nhớ / Đông xám… màu tang… nơi nơi
Một nét sao bay… trên khung trời buồn / Ngọn lá me khô… lăn trên mặt đường / Tưởng
tiếng chân quen… tìm về lối ngõ / Tiếng chân xưa… chỉ là tiếng gió / Gió thở
dài… lung lay hồn trăng
Không rõ điều gì đã khiến tôi không xa rời được cái giao hưởng của Lệ Đá 1, 2,
khiến đôi khi, khúc này hầu như là một phó bản, mô phỏng của khúc trước. Nó dẫn
tôi quanh quẩn trong trình tự ấy không rời.
Lệ Đá lời 5 (Riêng cho Nguyệt Lãng)
Có lẽ tôi là một kẻ chung tình mang trái tim phản trắc. Năm 1992, tôi đắm hồn
vào một tình yêu mới. Nguyễn Tà Cúc – Nguyệt Lãng – Ác Bà Bà, là Ba đại ác nhân
và mỹ nhân, đã cho tôi hạnh phúc và hành tôi điêu đứng không cùng.
Nguyễn Tà Cúc thì không thể nào không… tà cho được. Nàng đến với tôi như một tiểu
muội thứ thiệt. Rồi tôi đổ đốn đâm ra yêu tiểu muội, qua một phân thân của nàng
là Nguyệt Lãng (sóng trăng).
“Tháng Một Buồn” in năm 1993, là thi tập ghi dấu tình tôi với nàng. Rồi Nguyệt
Lãng lại phân thân, lần nữa. Từ cây bút hoa bướm hiệu đoàn, Ác Bà Bà soi kính
chiếu yêu vào đời sống, văn
chương. Và chứng tỏ năng khiếu trong lãnh vực phê bình văn học, và đàn hạch tư
cách bất chính của nhà văn. Trong và ngoài văn chương.
Tôi xa nàng từ 1993. Dù cái tình của chúng tôi vẫn là ngàn đời chẳng thể chia
xa. Và từ tháng Mười 1992 đến tháng Chạp 2002, đã là hơn 10 năm vèo qua trong
thân tình, chúng tôi vẫn chưa hề giáp mặt nhau, dù chỉ một lần. Dù tôi đến Cali
nhiều bận. Rất nhiều bận. Không gặp, phải chăng là cố gắng phi thường của chúng
tôí. Để giữ cho tình mãi đẹp. Cho dù, những năm sau này, tiểu muội của tôi đã
trong tình trạng không còn ràng buộc bởi hôn nhân.
Lệ
Đá lời 5
Từ lúc yêu trăng… tiêu hoang cuộc đời / Từ phút say hoa… tương tư biển trời /
Muội rót cho huynh… ngọt ngào suối biếc / Đắm say trên…từng hàng chữ viết /
Cũng muộn phiền… suốt kiếp
chưa vơi Sợi tóc biên cương… xa hơn ngàn trùng / Nguyệt lãng sông chiạ.. tang
thương chẳng cùng / Là nhánh phong lan… vì người vẫy gió / Lúc trăng vơi… người
còn mãi nhớ / Vẫn nồng nàn… thơm hương tịnh yên
Điệp khúc
Tình đau… lấp lánh… cuối trời / Ngàn khuya… gió thở… vai người / Tóc đêm… mượt
mà… suối nhớ / Trăng đắm… hồn sị.. trăng trôi
Tình lỡ đăng quang… sông vui, dặm phiền / Còn chút dư hương… vương trên cỏ hiền
/ Để mãi thương nhau… đời này kiếp khác / Những đêm sâu… thảng lời gió hát /
Khúc tình hoài… trăm
năm, ngàn năm