CHUYỆN VÃN
NGÀY XUÂN
Thôi thôi thôi
việc đã rồi
Mọi sự xin cứ
trách bồi vào ta
Nay mai dựng lại
nước nhà
Bia nghè vững
chải trên tòa trăm gian
Thôi thôi việc
đã lỡ làng
Cũng đừng đổ
oan cho thằng Trịnh Khải
…
Tương truyền
đây là những lời thơ Nôm mà vua Quang Trung phê vào sớ tâu của dân làng Văn
Chương. Tờ sớ khá dài, trong đó nêu lên sự hư hoại gãy đổ bia tiến sĩ ở văn miếu.
Người dân đồ đoán văn miều bị tàn phá là
do quân Tây Sơn trong lúc đánh dẹp họ Trịnh đã gây ra vừa đưa thêm giả thuyết
do Trịnh Khải cho người phá hoại để đổ vấy cho Tây Sơn. Điều đáng nói ở đây là
khi nhận sớ vua Quang Trung chẳng những không giận dữ mà còn đích thân Quang
Trung dùng chữ Nôm để phê với thái độ cầu thị vô cùng đặc biệt của ngài.
Qua lời phê
cho ta thấy đây là một việc rất lạ, rất độc đáo, sử cả ngàn năm chưa từng thấy.
Dưới chế độ phong kiến thì vua là thiên tử, quyền y tuyệt đối. Thuyết Nho gia
cho rằng, dưới gầm trời này không có đất nào không phải là đất của vua, có người
dân nào không phải là tôi đòi của vua. Vua tuyệt đối đúng, mọi người phải vâng
mệnh. Vua chỉ con chó nói là con dê thì mọi người cũng phải chịu là dê! Ấy vậy
mà ở đây ta thấy vua Quang Trung xin lỗi, nhận lỗi, nhận mọi trách nhiệm, bảo mọi
người cứ “trách bồi vào ta”. Chẳng những thế còn bảo mọi người đừng đổ vấy cho
đối thủ của mình “ cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải”. Với khí thế bách chiến
bách thắng, với quyền oai và thế lực tuyệt đối như vua Quang Trung thì việc đổ vấy cho ai làm hư
hoại văn miếu mà chả được, nhưng ngài không làm thế, ngài nhận lỗi và bảo đừng
đổ oan cho kẻ khác. Đây là tâm địa của bậc trượng phu. Sử ta, sử Tàu, sử tây xưa nay chưa từng thấy
ông vua nào lại đi xin lỗi dân như vua Quang Trung. Không phải xin lỗi suông,
sau đó ngài cho xuất ngân khố để tu bổ lại văn miếu.
Đừng nói chi
thời đại phong kiến xa xưa, ngay cả thời đại hôm nay cũng khó mà thấy vua hay
nguyên thủ quốc gia xin lỗi dân, nhận lỗi với dân, bảo mọi người đừng đổ vấy
cho kẻ đối nghịch. Nhất là ở xứ mình hay những quốc gia bị cai trị bởi những thể
chế độc tài. Việc lãnh đạo xin lỗi, nhận lỗi có chăng là ở những xứ văn minh,
dân chủ, tự do.
Ngày xuân nhớ
tết Kỷ Dậu 1789, có lẽ đây là một mùa xuân huy hòang nhất, hãnh diện nhất của
dân tộc Việt, sau chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa , đất nước độc lập, chấm dứt tệ
cống người vàng cho phương bắc. Đất nước được không bị phương bắc lấn chiếm
trong một thời gian dài. Tài thao lược, cầm quân của vua Quang Trung có lẽ cũng
không cần phải nói nữa, sử sách đủ đầy quá rồi. Tây Sơn dẹp hết các tập đoàn
phong kiến Trịnh, Nguyễn, Lê, Mạc, đánh Thanh, đập Xiêm… Quốc gia liền một mối
từ ải Nam Quan vào đến Gia Định, đây là cơ sở nền móng của một quốc gia thống
nhất, quãng thời gian Quang Trung và Nguyễn Nhạc xung đột tuy có sự phân chia
nhưng trên căn bản vẫn là quốc gia thống nhất. Gia Long sau khi hạ được Tây Sơn
đã thừa hưởng trọn vẹn thành quả này. Hiện nay có nhiều người viết lại lịch sử,
cố ý hạ bệ Quang Trung hoặc bao biện cho việc Gia Long rước quân Xiêm. Cầu viện
Pháp, đem chủ quyền quốc gia ủy thác cho Bá Đa Lộc tự tiện ký điều ước
Versailles với Pháp để đổi lấy viện trợ
đánh Tây Sơn. Thậm chí có người muốn hạ thấp chiến thắng xuân Kỷ Dậu nên tung
ra thuyết âm mưu, quân Thanh sang Đại Việt chỉ có năm ngàn quân. Đây là một sự
xuyên tạc lịch sử vô cùng tệ hại, nội quân hậu cần của quân Thanh còn lớn hơn
con số này!… Viết sách, viết sử với cái tâm yêu – ghét dẫn đến thiếu tôn trọng
sự thật quả là một điều tai hại không thể chấp nhận được. Sự thật dù có bao biện
hay bóp méo thì trước sau vẫn là sự thật, lịch sử không thể viết theo cảm hứng
yêu – ghét cá nhân mà phải viết đúng sự thật.
Việc Tây Sơn lạm
sát, đốt phá Cù Lao Phố và những địa điểm khác ở miền nam là một điều sai lầm
nhưng cũng dễ hiểu là vì trong chiến tranh bên nào cũng có thể mắc sai phạm
này!
Việc Tây Sơn
cho lấy chùa làm hành dinh, buộc tăng hoàn tục, lấy chuông đúc binh khí… là một
việc làm thất nhân tâm nhưng đó là thời
đại phong kiến xa xưa, Ngay cả thời hiện đại cũng có thảm cảnh tấn công chùa
chiền, phá chùa, bách hại tăng…
Tình yêu của
vua Quang Trung và Ngọc Hân là một mối tình đẹp và bi thảm. Ngay sau khi phá được
giặc Thanh, vào thăng Long. Quang Trung lập tức cho người chạy ngựa trạm mang một
cành đào vào Phú Xuân cho Ngọc Hân. Đây là hoa đào của tình yêu mang nỗi nhớ
thương gởi về Ngọc Hân. Đây cũng là cành đào báo tin thắng trận. Một cành đào
Thăng Long vào Phú Xuân mang nhiều ý nghĩa trọn vẹn cả tình riêng và nghĩa
chung. Khi Quang Trung chết, Ngọc Hân đau đớn chết đi sống lại, nàng những mong
chết theo nhưng ngặt vì còn hai con nhỏ nên phải gượng sống. Đọc Ai Tư Vãn của
Ngọc Hân mới thấy cả một trời đau thương của nàng công chúa Bắc Hà.
Vội vàng sửa
áo lên chầu
Than ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng- ( Ai Tư Vãn – Ngọc Hân)
Hoặc là muốn
chết theo Quang Trung nhưng còn hai con nhỏ:
“ Ngặt hai con
vẫn còn trứng nước” - ( Ai Tư Vãn – Ngọc Hân)
Ngoài tình cảm
riêng tư, Ngọc Hân còn ca tụng Quang Trung bằng những vần thơ tuyệt vời, những
vần thơ ấy hầu như người nào yêu sử Việt, yêu nước Việt cũng biết. Nàng đã ghi
nhận công lao của Quang Trung
Mà may áo vải
cờ đào
Giúp dân dựng
nước xiết bao công trình - ( Ai Tư Vãn- Ngọc Hân)
Ngọc Hân dồn hết
nỗi lòng của mình vào Ai Tư Vãn, một tình yêu đẹp nhưng ngắn ngủi và bi thảm.
Có nhiều vị viết sử cho rằng Quang Trung và Ngọc Hân không có tình yêu, chỉ là
kết hôn chính trị. Họ phủ nhận tình yêu của hai người. Thật sự thì ban đầu cũng
có thể, khi Quang Trung được Nguyễn Hữu Chỉnh mai mối để cưới Ngọc Hân. Vua Lê
muốn có chỗ dựa, Quang Trung muốn được chính danh với sĩ phu Bắc Hà, tuy nhiên ở
đời thì lạ gì trai tài gái sắc. Quang Trung và Ngọc Hân gặp nhau phát sinh tình
yêu là việc thường tình. Những vị phủ nhận tình yêu giữa hai người có lẽ nên thử
một lần đọc lại Ai Tư Vãn của Ngọc Hân để thấy nỗi nhớ thương, nỗi đau thống
thiết của nàng như thế nào.
Dân gian vậy
mà đáo để, người ta ca:
“Nước lã mà vã
nên hồ
Tay không mà dựng
cơ đồ mới ngoan” - ca dao
Tây Sơn tam kiệt
vốn xuất thân bình dân, không có gia thế hay bất cứ thế lực chính trị, quân sự
nào đỡ đầu. Tây Sơn cũng không nương dựa bất kỳ ai, dựng cờ khởi nghĩa từ con số
không ấy vậy mà chẳng mấy chốc dẹp cả cơ đồ hai trăm năm của họ Trịnh ờ Bắc Hà,
quét sạch cơ nghiệp chúa Nguyễn từ Phú Xuân vào tới Gia Định. Bao nhiêu dư đảng,
lực lượng cát cứ địa phương đều dẹp sạch. Sau khi Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn hủy
diệt hết những chứng tích hay bất cứ thứ gì có liên quan đến Tây Sơn, tuy nhiên
không thể cấm cản được lòng người ngưỡng mộ Tây Sơn. Nhà Nguyễn gọi Tây Sơn là
ngụy, là giặc nhưng người dân vẫn ngấm ngầm bày tỏ tình cảm của mình
“Ai cho miếu lớn hơn đình
Bậu có chồng mặc
bậu bậu vẫn gọi mình bằng anh”- ca dao
Bậu – qua là
hai từ cổ ngày nay đã mai một, hai từ này là phương ngữ vùng nam trung bộ (sau này
theo di dân khẩn hoang mang theo vào miền nam). Câu ca dao này có thể từ một
ông đồ hay chữ đặt ra, cũng có thể một người nào đó tưởng nhớ nhà Tây Sơn chế
ra, rồi từ đó lan rộng trong dân gian. Câu ca dao nhẹ nhàng, kín đáo, ẩn dụ
nhưng minh định rõ ràng. Dù cho triều Nguyễn chiến thắng và đang là chủ nhân
ông nhưng lòng dân vẫn tôn thờ Tây Sơn.
Suốt chiều dài lịch sử đẫm lệ, đầy máu xương vì những cuộc
chiến chống giặc phương bắc hay những cuộc nội chiến tương tàn ấy vậy mà ngày
nay vẫn tiếp diễn chứ chưa hề chấm dứt, có chăng là những giai đoạn ngắn tạm được
sống an ổn trong hòa bình. Lịch sử với bao bài học xương máu đắt giá nhưng hình
như chúng ta vẫn phải tiếp tục học và tiếp tục trả giá.
Mùa xuân lại về, chợt nhớ mùa xuân Kỷ Dậu với chiến thắng
lẫy lừng năm xưa, nhớ tiền nhân xây dựng giữ gìn bờ cõi, lòng hoài niệm về đất
cũ quê xưa.
Tiểu Lục Thần Phong
(Ất Lăng thành, 0223)