Phải thanh minh thanh nga ngay cho các cụ, đây không phải chuyện trâu già gặm cỏ non mà là chuyện ngày xưa các cụ tán gái khi còn thanh xuân. Chuyện trâu già gặm cỏ non cũng có, khi cụ Nguyễn Trãi làm thơ tán cô bán chiếu Nguyễn Thị Lộ, nhưng tuy đây là một cuộc tán gái nổi tiếng nhưng không thuộc vào category này nên không nhắc tới tại đây.
Tôi muốn nói
tới chuyện của cụ Nguyễn Công Trứ, cũng oai phong lẫm liệt cả văn lẫn võ không
thua chi cụ Nguyễn Trãi. Cụ Nguyễn Công Trứ ngay từ nhỏ đã mê ca hát, nhất là
hát phường vải và ca trù. Phường ca trù nổi tiếng nhất là của làng Cổ Đạm, nằm
gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ. Trong phường ca trù này có cô đào Hiệu
Thư vừa đẹp vừa hát hay. Nhưng có lẽ vì tài sắc vẹn toàn nên tính tình rất kiêu
kỳ, chỉ giao du với các bậc vương tôn công tử hoặc những người có danh phận.
Khi đó cậu Trứ cũng nổi tiếng là người tài hoa: đàn hay, đánh trống chầu vào
loại thượng thừa lại thêm văn hay chữ tốt khi ứng tác bài hát. Vậy mà cậu không được người đẹp Hiệu Thư ngó
ngàng chi tới. Lòng say mê người đẹp khiến cậu hạ mình xin làm người đệm đàn
cho Hiệu Thư. Cậu được Hiệu Thư thu dụng. Từ đó cậu thân cận được người đẹp, nàng
đi hát đâu cũng đem theo tay đệm đàn này. Nhưng cũng chỉ được gần Hiệu Thư
những khi trình diễn, đông người chung quanh nên chưa có dịp thổ lộ tình cảm.
Một bữa phường hát Cổ Đạm được mời qua hát ở Vĩnh Yên, đường đi khá xa. Nguyễn
Công Trứ được theo Hiệu Thư để đệm đàn và đặt lời ca. Bất ngờ hai người chậm
bước, không theo kịp đoàn. Nghĩ đây là dịp may để tỏ tình nhưng vướng chú tiểu
đồng vẫn lẽo đẽo theo hầu bên cạnh. Cậu Trứ mánh mung, giả vờ hô toáng lên là
quên dây đàn ở nhà. Hiệu Thư tưởng thật, sai chú tiểu đồng chạy về lấy. Khi hai
người đi qua một cánh đồng vắng vẻ, Nguyễn Công Trứ buông lời tán tỉnh, Hiệu
Thư chỉ “ứ hự” chứ không lên tiếng từ chối hay trách móc chi. Nhưng chàng trai
họ Nguyễn này thuộc loại chết nhát nên duyên phận chẳng đi đến đâu.
Cậu học trò
Nguyễn Công Trứ là người văn hay chữ tốt, rất giỏi kinh sử nhưng tính tình
phóng khoáng nên lận đận đường khoa cử. Mãi tới năm 41 tuổi mới đậu Giải Nguyên
và ra làm quan dưới triều Nguyễn. Năm 1832, ông được bổ giữ chức Tổng Đốc Hải
Yên. Vẫn còn dòng máu mê hát ả đào, một lần kia ông tổ chức hát ngay tại tư
dinh, mời những danh ca tới giúp vui. Trong số người được mời này có Hiệu Thư,
người ông mê mệt năm xưa. Khi tới lượt trình diễn, Hiệu Thư nhận ngay ra quan
Tổng Đốc đang ngồi chễm chệ nghe hát trên kia chính là cậu Trứ năm xưa. Nàng
cất giọng: “Giang san một gánh giữa đồng
/ Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?”. Nghe câu hát, quan Tổng Đốc
giật mình nhớ lại chuyện xưa. Quan vội hỏi: “Phải nàng là Hiệu Thư đó chăng?”.
Khi tàn cuộc hát, ông cho vời Hiệu Thư lại hàn huyên. Biết Hiệu Thư vẫn đơn
chiếc, ông cưới nàng làm thiếp. Câu chuyện tình này đã được ông ký thác lại
trong bài thơ: “Bỡn Cô Đào Già”:
Liếc trông đáng giá mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi
Chia đôi duyên nợ, đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười
Vì chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
Lưỡng quốc Trạng Nguyên Nguyễn Đăng Đạo,
sanh năm 1651, mất năm 1719, quê làng Hoài Bão, tên tục là làng Bịu, ở Tiên Du,
Bắc Ninh, cũng là một cao thủ trong chuyện tán gái. Thuở nhỏ, khi đang theo học
tại kinh đô, nhân Tết Nguyên Tiêu ngày rằm tháng giêng, ông mặc áo nhà nho đạm
bạc, cùng bạn bè đi dạo kinh thành. Họ tới thăm chùa Báo Thiên. Vừa tới cổng
chùa, họ thấy một chiếc kiệu hoa, có lính theo hầu, có nữ tỳ vây quanh. Từ kiệu
hoa bước xuống là một tiểu thư mặt hoa da phấn, sắc đẹp thuộc loại chim sa cá
lặn. Cậu Đạo nhà ta sững người chết trân, quên cả ngắm cảnh. Giai nhân vào chùa
hồi lâu mới ra, bước lên kiệu. Chàng thư sinh mê mẩn đứng trước kiệu, lính lệ
quát tháo, giơ roi đánh dẹp đường nhưng Nguyễn Đăng Đạo vẫn tỉnh bơ. Bỗng từ trong
kiệu, tiếng tiểu thư cất lên: “Hội vui cảnh đẹp, mọi người cùng du chơi thưởng
ngoạn, các ngươi chớ nạt nộ người ta như thế!”. Rồi nàng lệnh cho quân khiêng
kiệu tránh đường mà đi. Ông trạng tương lai cũng cất bước đi theo và chỉ đành
đứng lại khi kiệu vào một dinh thự to lớn. Thấy có một quán nước bên đường, ông
vào lân la hỏi bà bán quán và được biết đây là dinh quan Ngô Hiến hầu, coi về
cấm binh, chỉ huy việc quân cả kinh thành. Thiếu nữ trên kiệu là con gái độc
nhất của quan, vừa hay chữ vừa xinh đẹp nết na, tới tuổi cập kê nhưng mắt xanh
chưa đoái tới ai. Nghe vậy, Nguyễn Đăng Đạo quyết tâm tìm cách tiếp cận nàng.
Ông trở lại dinh quan, tìm cách làm bạn với một đứa hầu nhỏ trong dinh, mua kẹo
bánh hối lộ để dò hỏi đường ra lối vào, vị trí các phòng trong dinh, ghi nhớ
trong dạ. Ngay đêm hôm đó, ông mặc gọn ghẽ, trèo mấy lớp tường, lần tới phòng
người đẹp, khoét tường chui vào trong phòng, lên giường nằm chung với cô gái,
khẽ lay cô dậy. Tiểu thư đang say giấc nồng, giật mình tỉnh dậy thấy có người
lạ trên giường nhưng không hoảng hốt, hỏi cớ sự. Nguyễn Đăng Đạo tình thật
trình bày: “Từ bữa gặp nàng ở chùa, tôi trằn trọc thương nhớ khôn nguôi, định
tìm mai mối, lại sợ làm nhơ đến quan tể tướng, chưa chắc được ngài đoái hoài tới.
Nay cả gan ở đây, định ngỏ lới đính ước trăm năm với tiểu thư”. Người đẹp cả
thẹn hỏi: “Quân canh bao nhiêu lớp, lầu các sâu thăm thẳm, ngươi làm sao vào
lọt được nơi đây? Cha tôi tính nóng như lửa, chuyện này bị lộ, ngươi sẽ bị băm
vằm thành bùn cho coi”. Nghe vậy, Đăng Đạo chỉ cười. Tiểu thư vội lấy hai tấm
lụa trao cho ông, nói tiếp: “Ngươi chết cũng đáng tội. Nhưng nếu để người ta
biết thì tiết hạnh của ta cũng mang vết. Ta cho ngươi cái này, nhân lúc bọn gia
nhân chưa biết, mau tìm đường mà trốn đi”. Đăng Đạo cười nói: “Nàng đừng đem
cái chết ra dọa ta. Nếu sợ chết, ta đã không lẻn vào đây. Nếu đại nhân có tới,
ta cũng thành thật mà thưa, cớ sao mang cái chết ra dọa nhau?”. Giọng Đăng Đạo oang
oang khiến bọn gia nhân thức giấc, ùa đến bắt ông. Kẻ đánh, người trói mà Đăng
Đạo vẫn cứ cười nói không thôi. Ngô Hiến
hầu hay biết đùng đùng nổi giận nhưng thấy chàng thư sinh mặt mũi nho nhã, nói
năng đàng hoàng thẳng thắn bèn đem lòng thương, không nỡ đánh đập. Lệnh cho
giải tới pháp quan luận tội. Đúng lúc đó có quan đồng liêu họ Phạm làm ở Nội
Viện đến thăm, thấy sự việc bèn nói với quan Ngô Hiến: “Kẻ làm việc phi thường
ắt có tài khác thường. Tên này chắc có tài cán, hoài bão gì đây. Chi bằng xem
nó có tài gì không. Nếu có thì nhân đó tác thành cho nó. Còn nếu là loại côn đồ
thì đánh chết chưa muộn”. Nghe bạn nói hợp lý, quan cho gọi Đăng Đạo vào, bắt
làm văn để thử tài. Nhận được đề, chẳng cần suy nghĩ, Đăng Đạo hạ bút viết liền
một mạch xong ngay, lại còn tự tin bảo bọn người hầu: “Bay đi nói với tiểu thư
sửa soạn cơm nước, nếu có chút khinh lờn là ta nhất định không làm khách quý
nhà các người nữa”. Bọn người hầu bưng miệng cười chế nhạo cho là kẻ ngông cuồng.
Bài thơ được trình lên, hai quan đọc xong hết lời ca ngợi. Quan họ Phạm nói
riêng với quan họ Ngô: “Ngàn vàng cũng
chẳng tìm được đứa rể quý như thế này đâu!”. Thấy tên cả gan đục tường mò vào
phòng tiểu thư giỏi văn chương thơ phú, Ngô Hiến hầu ra lệnh tha tội, hỏi quê
quán họ tên, làm phòng riêng cho ở, cấp dầu đèn cho học. Năm sau, Nguyễn Đăng
Đạo thi đỗ đầu kỳ thi Hương, được quan Ngô Hiếu tác thành nhân duyên phu phụ
với con gái ông.
Trong nghệ thuật tán gái có 36 kế,
không biết kế đục tường vào giường ngủ của người đẹp thuộc kế nào. Tôi rắp tâm nghiên
cứu thấy chỉ có kế “ám độ trần sương” diễn nôm là “đi con đường mà không ai
nghĩ đến” là có thể có chút dây mơ rễ má
với chuyện của ngài Lưỡng quốc Trạng Nguyên Nguyễn Đăng Đạo. Kế này dạy khi tán gái phải có những hành
động tỏ tình độc đáo làm kích thích trí tưởng tượng của phụ nữ. Kế này không có
đường mòn, chàng trai phải phạt cỏ chặt cây tạo ra lối đi. Tiểu thư con quan
đang yên giấc trong dinh được canh gác cẩn mật, mở mắt dậy thấy một tên lạ hoắc
nằm trên giường thì quá bất ngờ và khác lạ, ú ớ nể phục là cái chắc. Dù sao thì
cũng đã ngủ với trai, la lên thì xấu chàng hổ thiếp, thôi thì OK cho nó lành!
Kế sách “ám độ trần sương” là kế thứ
15 trong 36 kế tán gái các cụ đã nằm lòng. Chắc các công tử còn cu ky một mình ngày
nay cũng muốn biết các kế khác có chi học hỏi được không. Giấy bút có hạn, tôi
không thể diễn giải kỹ càng, chỉ bonus
cho các chàng trai đang rắp ranh bắn sẻ tên của 36 kế của người xưa. Muốn ngâm
cứu xin tìm trong Google. Kế thứ nhất là “dương đông kích tây” (đánh lạc hướng
đối phương). Tiếp theo là: “Điệu hổ ly sơn” (dụ hổ ra khỏi rừng); “Nhất tiễn hạ
song điểu” (một mũi tên hạ hai con chim); “Minh tri cố muội” (biết rõ mà làm
như không biết); “Du long chuyển phượng” (biến rồng thành phượng); “Mỹ nhân kế”
(kế dùng người đẹp); “Sấn hỏa đả kiếp” ( theo lửa mà hành động); “Vô trung sinh
hữu” (không có mà làm thành có); “Tiên phát chế nhân” (ra tay trước để chế phục
đối phương); “Đả thảo kinh xà” (đập cỏ cho rắn sợ); “Tá đao sát nhân” ( Mượn
dao giết người); “Di thể giá họa” (dùng vật gì để vu khống người khác); “Khích
tướng kế” (kế chọc giận tướng giặc); “Man thiên quá hải” (lợi dụng sương mủ để
ẩn trốn); “Ám độ trần sương” (đi con đường không ai nghĩ đến); “Phản khách vi chủ” (đổi vị khách
thành vị chủ); “Kim thiền thoát xác” (ve sầu vàng lột xác); “Không thành kế”
(bỏ trống cửa thành); “Sát kê hách hầu” (giết gà cho khỉ sợ); “Phản gián kế” (dùng
kế của đối phương để quật lại): “Lý đại đào cương” (đưa cây lý chết thay cây
đào); “Thuận thủ khiên dương” (thuận tay dắt dê về); “Dục cầm cố tu” (muốn bắt lại
thả ra); “Khổ nhục kế” (hành hạ thân xác mình); “Phao bác dẫn ngọc” (ném hòn
ngói thu về hòn ngọc); “Tá thi hoàn hồn” (mượn xác để hồn về). Kế cuối cùng
chắc nhiều chàng đi ve gái đã thuộc lầu: “Tẩu kế” (chạy thoát thân).
Chiến lược chiến thuật tán gái phức
tạp như vậy, nghe thiệt rắc rối. Tôi khoái lối tán gái đơn sơ, tự nhiên của
những chàng trai của ruộng đồng hơn. Những câu tán gái thơ mộng, ít lời nhiều ý
đã nằm trong ca dao. “Hỡi cô vác cuốc
thăm đồng / thăm lúa, thăm mạ hay lòng thăm ai”. Hoặc: “Thấy em thấp bé mà xinh / Anh thuận nhân tình, anh nắm cổ tay / Nắm rồi
anh hỏi cổ tay / Ai nặn nên trắng, ai xây nên tròn?”.
Ca dao tán tỉnh nghe tình hết biết. Chỉ
những người sống giản dị giữa thiên nhiên mới có được những ý tưởng ngộ nghĩnh.
“Ước gì sông rộng một gang / Bắc cầu dải
yếm cho nàng sang chơi”. Hoặc: “Cô
kia cắt cỏ bên sông / Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang”. Hay: “Gần nhà mà chẳng sang chơi / Để anh bắc
ngọn mùng tơi làm cầu”.
Giữa cảnh đồng ruộng sông nước bao
la, ánh trăng trên trời, người thương dưới đất, ca dao mượn đông nói tây, mượn quả
nói lòng. “Trèo lên cây khế nửa ngày / Ai
làm chua xót lòng này khế ơi!”. Hoặc: “Trăng
dưới nước là trăng trên trời / Người trước mặt là người trong tim”.
Tài tình của ca dao là biết mượn hồn
xác một hành động đơn giản bên ngoài để diễn tả tình cảm bên trong. “Rung cây rung cội rung cành / Rung sao cho
chuyển lòng anh với nàng”. Hoặc: “Bướm
bay giữa bể bướm rơi / Anh thấy em ngó nhiều nơi anh buồn”.
Chơi chữ là một nghệ thuật trong văn
chương. Ca dao không chủ ý làm văn chương nhưng cũng có những câu chơi chữ rất
tới. “Đỗ tương thì ủ tương bần / Đỗ chàng
thì ủ tám lần tương tư”. Hoặc: “Chẳng
cần nghiêng nước nghiêng thành ? Chỉ cần nghiêng đủ lòng anh là vừa”.
Đụng vào ca dao, tôi khó dứt ra. Số
đếm là những con chữ lạnh tanh, khô không khốc, chẳng có chút tình tứ thơ mộng
nào. Nhưng khi ca dao đếm, những con số như linh động, được khoác vào một tấm
áo mượt mà chữ nghĩa. “Một chờ, hai đợi,
ba trông / Bốn thương, năm nhớ, bảy tám chín mong, mười tìm”. Thêm một câu
nữa: “Người sao một hẹn thì nên / Tôi sao
chín hẹn mà quên cả mười”. Đó là những con số đã hoàn chỉnh nhưng ca dao còn
bỡn cợt với con số chưa tròn trĩnh, nửa cho mình, nửa cho người. Vậy mới tình “Chăn kia nửa đắp nửa hờ / Gối kia nửa đợi,
nửa chờ duyên em”.
Tán tỉnh mà đếm như không đếm, con số
khô khốc đã ướt rượt, sao tình đến vậy ta?
03/2025
Website: www.songthao.com