Sinh ngày 26 tháng 7 năm 1937 tại Hà Nội, lớn lên tại Sài Gòn. Năm 1956 sang Mỹ du học theo chương trình học bổng Fulbright. Năm 1972, ông về nước thành lập trường đại học Cửu Long tại Sài Gòn, đồng thời giữ chức Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại. Ông cũng là Tổng Giám Đốc sau cùng của Việt Tấn Xã. Sau 1975, ông cùng gia đình sang Mỹ, định cư ở tiểu bang Virginia. Ông từng giữ chức vụ Giám Đốc chương trình Việt Ngữ đài RFA (1997-2003). Cùng nhà văn Trương Anh Thụy sáng lập và điều hành nhà xuất bản Cành Nam và Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ (1986-2016). Ông đã có trên 30 cuốn sách được xuất bản.
Ông qua đời vào ngày 3 tháng 3 năm 2016 khi đang trên chuyến bay từ Washington, D.C. đến Manila, Phi Luật Tân để tham dự một hội thảo quốc tế vể tranh chấp biển Đông.
THƠ XUYÊN LƯU (SENRYŪ) NHẬT-BẢN
Từ
những năm đầu thập niên 60 của thế-kỷ trước, tôi đã mê thơ Nhật đến nỗi đi học
tiếng Nhật để có thể dịch và giới-thiệu nền thơ ca độc-đáo này tới các độc-giả
Việt-nam. Những thử nghiệm đầu tiên của
tôi là dịch thơ tanka (đoản-ca) hay
còn gọi là waka ("Hoà-ca," Hoà
ở đây nghĩa là người Nhật), 5-7-5-7-7 âm-tiết, mà tôi được làm quen qua các bản
dịch sang tiếng Anh của Arthur Waley.
Sau biết nhiều tiếng Nhật rồi, tôi mới khám-phá ra cái thiên-tài của Nhật-bản
trong thơ là đi đến chỗ ngày càng cô đọng.
5-7-5-7-7,
thể thơ cổ-điển chiếm-ngự thi-đàn được cả 5-6 thế-kỷ, từ thời Man'yōshū ("Vạn-diệp-tập," TK
thứ 8) đến những tuyển-tập nổi tiếng như Kokinshū
("Cổ-kim-tập," TK thứ 10) rồi Shinkokinshū
("Tân Cổ-kim-tập," TK thứ 13), tới thế-kỷ thứ 14-15 mới bắt đầu
thấy độc-quyền của mình bị thách-thức để bể ra thành những liên-khúc 5-7-5 7-7
5-7-5 7-7... có thể dài đến vô tận mà sẽ được gọi là renga ("liên-ca").
Song renga thì vui như một thú
chơi tao nhã hay càng về sau thì càng nghịch ngợm, bỡn cợt, mất đi cái thanh
tao của thơ.
Chính
vì vậy mà khi Matsuo Bashō ("Ba-tiêu," 1644-1694) xuất hiện vào
thế-kỷ thứ 17, ông đã đem lại cái đậm đà, sâu lắng với vị thiền của thơ đúng
nghĩa, đưa hình-thức thơ 5-7-5, lúc đầu còn gọi là "phát-cú" (hokku) tức 3 dòng đầu của một bài renga, lên một chiều cao để trở thành
một thể thơ độc-lập gọi là haiku ("bài-cú,"
thỉnh thoảng cũng viết thành "hài-cú").
Cũng
vào thập niên 60 của thế-kỷ trước, tôi đã bỏ khá nhiều thời giờ ra dịch nguyên
một tuyển-tập thơ haiku sang tiếng
Việt, chủ-yếu dựa trên tuyển-tập dịch sang tiếng Anh của Harold G. Henderson, An Introduction to Haiku (Garden City,
N.J.: Doubleday, 1958) tuy tôi dịch thẳng từ tiếng Nhật. Dù đến năm 1975, trên đường đi tỵ nạn, tôi bị
cướp mất tuyển-tập đó, khi sang đến Mỹ tôi vẫn còn gặp không ít bạn bè của tôi
vẫn nhớ một số bản dịch của tôi như:
Cảnh
cô-độc
Chú
đến xem không? Độc
một
lá đồng...
Đây là Bashō viết cho một đệ-tử tả cảnh mùa thu, lá cây
ngô-đồng rụng hết, trên cành chỉ còn lại độc một chiếc lá... không biết sẽ bay
đi lúc nào. Hoặc một cảnh khác, cũng
cùng mùa như là tàn-thu:
Cành
củi khô
Một
cánh quạ vừa sà:
Chiều
tàn thu.
Và nhất là bài thơ nổi tiếng nhất của ông:
Ao
tù cổ
Một
con ếch nhảy vô:
Nghe động tiếng.
Chả trách sau ông, không còn ai muốn
làm haiku bỡn cợt nữa vì sợ mất
tiếng. Những tên tuổi như Buson
(1716-1783), Issa (1763-1827), v.v. tuy có viết khác ông nhưng vẫn ở trong
tinh-thần ngậm ngùi, sâu thẳm... cái mà người Nhật gọi là mono no aware, một thứ ngậm ngùi về sự đời. Cũng vì thế mà người ta đã tôn ông (Bashō)
lên thành "thi-thánh."
Trong
một thời-gian thật lâu, vì tôi mất cả hai tập thơ dịch waka/tanka và haiku ở
Phú-quốc nên tôi đã như muốn bỏ cuộc.
Nhưng rồi nhà thơ Trương Anh Thụy không chịu cho tôi quên. Hồi chị làm thơ Thiền (VN), chị cứ nhất quyết
bắt tôi phải nói về thơ Thiền, thơ haiku Nhật-bản
cho chị ấy nghe. Bất đắc dĩ, tôi lại
phải đi dịch lại một số thơ đó nên chẳng mấy lúc cũng gom lại được cả mấy trăm
bài... để một ngày nào đó, chắc cũng phải cho chúng ra mắt độc-giả thôi.
Nhưng
rồi cao-điểm của thơ haiku cũng chỉ
được mấy thế-kỷ thôi, chủ-yếu là nổi bật lên khoảng hai thế-kỷ 17-19. Sau đó, các thi-sĩ thời-danh của Nhật cũng
quay sang các thể thơ khác, và đến cuối thế-kỷ 19 đầu thế-kỷ thứ 20 thì quay
hẳn sang những thể thơ học được của Tây-phương, không khác gì cách mạng Thơ Mới
ở Việt-nam vào những năm 1930-40. Người
ta vẫn tiếp-tục làm các loại thơ cổ-truyền như tanka hay haiku, nhưng
hiếm lắm mới có người nổi bật lên như Yosano Akiko (1878-1942), một nữ-thi-sĩ
viết tanka, đôi khi rất táo bạo, hay haiku của Masaoka Shiki (1867-1902).
Còn
người bình-dân thì họ ít làm thơ mới, họ tiếp-tục truyền-thống thơ cổ-truyền
nhưng vì không có cái thâm sâu của Bashō hay Buson, Issa... nên họ trở lại làm
loại thơ ít chiều sâu, có phần tinh nghịch mà người ta gọi là thơ
"xuyên-lưu" (senryū, có thể
gọi là loại thơ lưu loát tựa như "nước chảy"). Nhưng không phải vì thế mà thơ senryū không có cái nét riêng của nó,
nhất là cái nét cô đọng, ngộ nghĩnh của thơ Nhật.
Và đây là mấy bài thơ senryū tôi mới dịch, mong là "mua vui cũng được một vài... chấm than!"
Tsuru
iwaku
mō
medetasa ni
akimashita
--Shūjin
Con hạc than:
"Chán quá mất cái vụ
"Mừng tuổi hạc!"
Fuji
ni wakareta kara
tabi
ni
hone
ga ore
Rời Phú-sĩ xong
thì tất cả chuyến đi
đâm uể oải...
Namekuji
ni
kuchi
o suwareta
ishi
Jizō
Tượng Ông Địa
bị con sên hôn lén
ngay nơi mép.
Waga
mono to
omoeba
karushi
ōzutsumi
Vừa nghĩ tới
cái bị là của mình
thấy nhẹ hẳn!
Kamakiri
no
mōzen
to shite
shinde
yuki
--Shōtarō
Con bọ ngựa
mạnh dạn hiên ngang đi
vào chỗ chết.
Chi
no ana o
nokoshite
kyokubadan wa
tachi
Đám Sơn Đông
Mãi Võ vừa ra đi
Để lại một lỗ
Kagerō
wa
chotto
sekai o
mi
ni umare
Con phù du
sinh ra được thấy đời
đúng một thoáng.
Samazama
no
na
o motsu hanabi
mina
kemuri
--Keisen
Có gọi là pháo gì
đi chăng nữa cũng vẫn
chỉ là khói.
Hana
saite
itemo
zassō
hiki-nukare
--Kōbō
Có nở hoa
đi chăng nữa cỏ dại
vẫn phải nhổ.
Isshō
o
kon
na kagami de
haha
sugoshi
--Kimiko
Cả một đời
mẹ bỏ ra ngắm nghía
loại gương này.
Massugu
ni
yuku
ni chōchō
hima
ga ari
Một con bướm
dù có bay đi thẳng
vẫn nhởn nhơ.
Ochitsuite
hara
o heraseru
hikigaeru
--Shittarō
Lặng như tờ
anh ếch ta vẫn thấy
bụng đói meo.
Kōkai
wa
shitemo
chawan wa
warete
iru
Hối cách mấy
thì chén trà cũng đã
vỡ mất tiêu.
Yagate
shinu
kehiki
wa mienu
semi
no koe
Kêu không dứt
khi nào chúng chết nhỉ?
Tiếng ve sầu.
Meisō
no
baka
o suro koto
tōkarazu
Danh tăng thì
danh tăng, chuyện xuẩn ngu
đâu xa mấy!
Hae
no koi
hito
wa mujō no
hae
tataki
Chúng đang làm tình
vậy mà người vô tình
đập ruồi chết.
Watashi-mori
mainichi
hitottoko
de
kogi
Anh lái đò
ngày này qua ngày nọ
chèo một chỗ.
Gejigeji
ni
zazen
no oshō
tobi
agari
Thấy con rết
ông sư đang toạ thiền
nhảy toáng lên.
Asagao
wa
kane
o konomanu
kaki
ni saki
Chẳng ham tiền
hoa bìm bìm cứ nở
nơi hàng giậu.
Byōnin
ga
mite
oku isha no
hana
no ana
Con bệnh nằm
thấy thật rõ lỗ mũi
ông thầy lang.
Ki
ka eda ka ha ka
saboten
wa
shirenu
nari
Cây xương rồng
là cây? cành? hay lá?
Khó mà biết.
Hara
no ii
tombi
kōkū ni
takaku
mai
Bụng no tròn
con diều bay lên mãi
cao thật cao.
Kata-ashi
ni
natte
aki tatsu
kirigirisu
Con châu chấu
gặp thu về nhảy múa
mất một chân.
Goinkyo
mo boke
neko
mo boke
shizuka
nari
--Santarō
Cả bà già
lẫn con mèo đều lẫn
nên im rơ.
NGUYỄN NGỌC BÍCH
Viết xong đêm 24/10/2013
Khu Đồng Xuân, Bang Trinh Nữ
NGUYỄN NGỌC BÍCH