Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

474. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 50 : NGUYỄN NGỌC BÍCH (1937-2016) - THƠ XUYÊN LƯU (SENRYŪ) NHẬT-BẢN


Sinh ngày 26 tháng 7 năm 1937 tại Hà Nội, lớn lên tại Sài Gòn. Năm 1956 sang Mỹ du học theo chương trình học bổng Fulbright. Năm 1972, ông về nước thành lập trường đại học Cửu Long tại Sài Gòn, đồng thời giữ chức Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại. Ông cũng là Tổng Giám Đốc sau cùng của Việt Tấn Xã. Sau 1975, ông cùng gia đình sang Mỹ, định cư ở tiểu bang Virginia. Ông từng giữ chức vụ Giám Đốc chương trình Việt Ngữ đài RFA (1997-2003). Cùng nhà văn Trương Anh Thụy sáng lập và điều hành nhà xuất bản Cành Nam và Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ (1986-2016). Ông đã có trên 30 cuốn sách được xuất bản.

Ông qua đời vào ngày 3 tháng 3 năm 2016 khi đang trên chuyến bay từ Washington, D.C. đến Manila, Phi Luật Tân để tham dự một hội thảo quốc tế vể tranh chấp biển Đông.

                                                                                               

 

 

THƠ XUYÊN LƯU (SENRYŪ) NHẬT-BẢN

        Từ những năm đầu thập niên 60 của thế-kỷ trước, tôi đã mê thơ Nhật đến nỗi đi học tiếng Nhật để có thể dịch và giới-thiệu nền thơ ca độc-đáo này tới các độc-giả Việt-nam.  Những thử nghiệm đầu tiên của tôi là dịch thơ tanka (đoản-ca) hay còn gọi là waka ("Hoà-ca," Hoà ở đây nghĩa là người Nhật), 5-7-5-7-7 âm-tiết, mà tôi được làm quen qua các bản dịch sang tiếng Anh của Arthur Waley.  Sau biết nhiều tiếng Nhật rồi, tôi mới khám-phá ra cái thiên-tài của Nhật-bản trong thơ là đi đến chỗ ngày càng cô đọng. 

        5-7-5-7-7, thể thơ cổ-điển chiếm-ngự thi-đàn được cả 5-6 thế-kỷ, từ thời Man'yōshū ("Vạn-diệp-tập," TK thứ 8) đến những tuyển-tập nổi tiếng như Kokinshū ("Cổ-kim-tập," TK thứ 10) rồi Shinkokinshū ("Tân Cổ-kim-tập," TK thứ 13), tới thế-kỷ thứ 14-15 mới bắt đầu thấy độc-quyền của mình bị thách-thức để bể ra thành những liên-khúc 5-7-5 7-7 5-7-5 7-7... có thể dài đến vô tận mà sẽ được gọi là renga ("liên-ca").  Song renga thì vui như một thú chơi tao nhã hay càng về sau thì càng nghịch ngợm, bỡn cợt, mất đi cái thanh tao của thơ.

        Chính vì vậy mà khi Matsuo Bashō ("Ba-tiêu," 1644-1694) xuất hiện vào thế-kỷ thứ 17, ông đã đem lại cái đậm đà, sâu lắng với vị thiền của thơ đúng nghĩa, đưa hình-thức thơ 5-7-5, lúc đầu còn gọi là "phát-cú" (hokku) tức 3 dòng đầu của một bài renga, lên một chiều cao để trở thành một thể thơ độc-lập gọi là haiku ("bài-cú," thỉnh thoảng cũng viết thành "hài-cú").

        Cũng vào thập niên 60 của thế-kỷ trước, tôi đã bỏ khá nhiều thời giờ ra dịch nguyên một tuyển-tập thơ haiku sang tiếng Việt, chủ-yếu dựa trên tuyển-tập dịch sang tiếng Anh của Harold G. Henderson, An Introduction to Haiku (Garden City, N.J.: Doubleday, 1958) tuy tôi dịch thẳng từ tiếng Nhật.  Dù đến năm 1975, trên đường đi tỵ nạn, tôi bị cướp mất tuyển-tập đó, khi sang đến Mỹ tôi vẫn còn gặp không ít bạn bè của tôi vẫn nhớ một số bản dịch của tôi như:

        Cảnh cô-độc

        Chú đến xem không?  Độc

        một lá đồng...

Đây là Bashō viết cho một đệ-tử tả cảnh mùa thu, lá cây ngô-đồng rụng hết, trên cành chỉ còn lại độc một chiếc lá... không biết sẽ bay đi lúc nào.  Hoặc một cảnh khác, cũng cùng mùa như là tàn-thu:

        Cành củi khô

        Một cánh quạ vừa sà:

        Chiều tàn thu.

Và nhất là bài thơ nổi tiếng nhất của ông:

        Ao tù cổ

        Một con ếch nhảy vô:

        Nghe động tiếng.

Chả trách sau ông, không còn ai muốn làm haiku bỡn cợt nữa vì sợ mất tiếng.  Những tên tuổi như Buson (1716-1783), Issa (1763-1827), v.v. tuy có viết khác ông nhưng vẫn ở trong tinh-thần ngậm ngùi, sâu thẳm... cái mà người Nhật gọi là mono no aware, một thứ ngậm ngùi về sự đời.  Cũng vì thế mà người ta đã tôn ông (Bashō) lên thành "thi-thánh."

        Trong một thời-gian thật lâu, vì tôi mất cả hai tập thơ dịch waka/tanka haiku ở Phú-quốc nên tôi đã như muốn bỏ cuộc.  Nhưng rồi nhà thơ Trương Anh Thụy không chịu cho tôi quên.  Hồi chị làm thơ Thiền (VN), chị cứ nhất quyết bắt tôi phải nói về thơ Thiền, thơ haiku Nhật-bản cho chị ấy nghe.  Bất đắc dĩ, tôi lại phải đi dịch lại một số thơ đó nên chẳng mấy lúc cũng gom lại được cả mấy trăm bài... để một ngày nào đó, chắc cũng phải cho chúng ra mắt độc-giả thôi.

        Nhưng rồi cao-điểm của thơ haiku cũng chỉ được mấy thế-kỷ thôi, chủ-yếu là nổi bật lên khoảng hai thế-kỷ 17-19.  Sau đó, các thi-sĩ thời-danh của Nhật cũng quay sang các thể thơ khác, và đến cuối thế-kỷ 19 đầu thế-kỷ thứ 20 thì quay hẳn sang những thể thơ học được của Tây-phương, không khác gì cách mạng Thơ Mới ở Việt-nam vào những năm 1930-40.  Người ta vẫn tiếp-tục làm các loại thơ cổ-truyền như tanka hay haiku, nhưng hiếm lắm mới có người nổi bật lên như Yosano Akiko (1878-1942), một nữ-thi-sĩ viết tanka, đôi khi rất táo bạo, hay haiku của Masaoka Shiki (1867-1902).

        Còn người bình-dân thì họ ít làm thơ mới, họ tiếp-tục truyền-thống thơ cổ-truyền nhưng vì không có cái thâm sâu của Bashō hay Buson, Issa... nên họ trở lại làm loại thơ ít chiều sâu, có phần tinh nghịch mà người ta gọi là thơ "xuyên-lưu" (senryū, có thể gọi là loại thơ lưu loát tựa như "nước chảy").  Nhưng không phải vì thế mà thơ senryū không có cái nét riêng của nó, nhất là cái nét cô đọng, ngộ nghĩnh của thơ Nhật.

        Và đây là mấy bài thơ senryū tôi mới dịch, mong là "mua vui cũng được một vài... chấm than!"

Tsuru iwaku
mō medetasa ni
akimashita
        --Shūjin
 
Con hạc than:
"Chán quá mất cái vụ
"Mừng tuổi hạc!"
 
Fuji ni wakareta kara
tabi ni
hone ga ore
 
Rời Phú-sĩ xong
thì tất cả chuyến đi
đâm uể oải...
 
Namekuji ni
kuchi o suwareta
ishi Jizō
 
Tượng Ông Địa
bị con sên hôn lén
ngay nơi mép.
 
Waga mono to
omoeba karushi
ōzutsumi
 
Vừa nghĩ tới
cái bị là của mình
thấy nhẹ hẳn!
 
Kamakiri no
mōzen to shite
shinde yuki
        --Shōtarō
 
Con bọ ngựa
mạnh dạn hiên ngang đi
vào chỗ chết.
 
Chi no ana o
nokoshite kyokubadan wa
tachi
 
Đám Sơn Đông
Mãi Võ vừa ra đi
Để lại một lỗ
 
Kagerō wa
chotto sekai o
mi ni umare
 
Con phù du
sinh ra được thấy đời
đúng một thoáng.
 
Samazama no
na o motsu hanabi
mina kemuri
        --Keisen
 
Có gọi là pháo gì
đi chăng nữa cũng vẫn
chỉ là khói.
 
Hana saite
itemo zassō
hiki-nukare
        --Kōbō
 
Có nở hoa
đi chăng nữa cỏ dại
vẫn phải nhổ.
 
Isshō o
kon na kagami de
haha sugoshi
        --Kimiko
 
Cả một đời
mẹ bỏ ra ngắm nghía
loại gương này.
 
Massugu ni
yuku ni chōchō
hima ga ari
 
Một con bướm
dù có bay đi thẳng
vẫn nhởn nhơ.
 
Ochitsuite
hara o heraseru
hikigaeru
        --Shittarō
 
Lặng như tờ
anh ếch ta vẫn thấy
bụng đói meo.
 
Kōkai wa
shitemo chawan wa
warete iru
 
Hối cách mấy
thì chén trà cũng đã
vỡ mất tiêu.
 
Yagate shinu
kehiki wa mienu
semi no koe
 
Kêu không dứt
khi nào chúng chết nhỉ?
Tiếng ve sầu.
 
Meisō no
baka o suro koto
tōkarazu
 
Danh tăng thì
danh tăng, chuyện xuẩn ngu
đâu xa mấy!
 
Hae no koi
hito wa mujō no
hae tataki
 
Chúng đang làm tình
vậy mà người vô tình
đập ruồi chết.
 
Watashi-mori
mainichi hitottoko
de kogi
 
Anh lái đò
ngày này qua ngày nọ
chèo một chỗ.
 
Gejigeji ni
zazen no oshō
tobi agari
 
Thấy con rết
ông sư đang toạ thiền
nhảy toáng lên.
 
Asagao wa
kane o konomanu
kaki ni saki
 
Chẳng ham tiền
hoa bìm bìm cứ nở
nơi hàng giậu.
 
Byōnin ga
mite oku isha no
hana no ana
 
Con bệnh nằm
thấy thật rõ lỗ mũi
ông thầy lang.
 
Ki ka eda ka ha ka
saboten wa
shirenu nari
 
Cây xương rồng
là cây? cành? hay lá?
Khó mà biết.
 
Hara no ii
tombi kōkū ni
takaku mai
 
Bụng no tròn
con diều bay lên mãi
cao thật cao.
 
Kata-ashi ni
natte aki tatsu
kirigirisu
 
Con châu chấu
gặp thu về nhảy múa
mất một chân.
 
Goinkyo mo boke
neko mo boke
shizuka nari
        --Santarō
 
Cả bà già
lẫn con mèo đều lẫn
nên im rơ.

NGUYỄN NGỌC BÍCH
Viết xong đêm 24/10/2013
Khu Đồng Xuân, Bang Trinh Nữ