Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

482. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 58 : PHẠM BÁ -Những vết sẹo thời gian


Tên thật Phạm Bá Luân. Nguyên quán Vịnh Hạ Long Bắc Việt. Cưu SQ-HCTC Tổng Nha Tài Chánh và Thanh Tra Quân Phí Bộ QP/QLVNCH. Cựu SQ Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo. Case Manager Bệnh Viên Nhi Đồng – NM Young Children Health Center thuộc  Trường`Đại Học Y Khoa tiểu bang NM Hoa Kỳ. Hiện sống tại North Potomac, tiểu bang Maryland.

Tác phẩm đã in: = Bên Kia Bờ Nhớ (In chung với Ý Nguyên, 2018) -  Bên Dòng Thời Gian (In chung với Ý Nguyên, 2022) - Những Mảnh Ký Ức (In chung với Ý Nguyên, 2024).

                                                             

Những hình ảnh ghi lại trong bài viết
 

NHỮNG VẾT SẸO THỜI GIAN.

Bài viết & Hình Ảnh: PHẠM BÁ

Lời Tác Giả: Trên những nẻo đường đất nước mến yêu mà người viết đã có dịp được đi qua trong những chuyến về thăm VN, ghi nhận được những hình ảnh mà theo tác giả là những vết hằn trong lịch sử VN, là những chứng tích lịch sử mà người viết tự gọi là những “Vết Sẹo Thời Gian” không mang một ý đồ chính trị nào. Biết rằng, đã có rất nhiều người về thăm VN, đã biết, đã thấy… nhưng vì sự e dè dễ bị cho “đội mũ lệch”, nên ít ai dám nêu lên, khiến chúng ta thiếu đi mt mảnh quá kh. Mong bạn đọc hiu cho. Đa tạ.     

Trong chuyến về VN đi tảo mộ các cụ tổ từ năm đời họ chúng tôi ở Hạ Long, chúng tôi ghé qua Hà Nội vài ngày đi thăm lại ngôi trường cũ thân yêu ngày xưa, Trường Dũng Lạc toạ lạc trong khuôn viên Nhà Thờ Chánh Tòa Hà Nội mà cư dân Hà Thành thường gọi là Nhà Thờ Lớn. Trường nay không còn nữa nhưng Nhà Thờ vẫn sừng sững tắm nắng gội mưa giữa lòng thủ đô như một thách đố với thời gian: rêu phong phủ kín như từ bao lâu nay không được quét một nước vôi hay nước sơn nào. Sao lại như thế nhỉ?. Chụp được vài pô hình, tôi quay ra kiếm GrabBike đưa đến Chùa Một Cột. Nhưng rủi quá, đúng vào lúc Tonton Donald Trump đến thăm khu vực đó, tôi không vào được vì các ngả vào đều bị chặn lại. Chúng tôi đành phải cuốc bộ ra đường Hoàng Diệu, nơi đây là Chính Bắc Môn. Trông thấy một số đông đang chụp hình quay phim, tiến đến gần, tôi mới biết rằng đây chính là Cửa Bắc Thành Hà Nội, nơi đã mang một dấu tích lịch sử mà từ hồi nhỏ tôi chưa hề đươc nghe ai nói đến. Đáng tiếc thật!

Vết đạn thù trên “Chính Bắc Môn”                                                                     

Trước tiên xin được lược qua đôi dòng lịch sử.… 

Trước nguy cơ đại quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương (1800- 1873) đem quân từ Sơn Tây về bảo vệ thành. Ngày 20 tháng 11 năm 1873, Đại Úy Francis Garnier đánh úp thành. Chỉ sau gần hai giờ đồng hồ chống cự, thành Hà Nội thất thủ, Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương bị thương nặng được đưa về tư dinh. Thừa thắng xông lên, Francis Garnier chiếm thành và bắt giữ ông với toan tính băng bó vết thương cho ông. Nhưng ông từ chối và kiên quyết tuyệt thực cho đến chết. Sau đúng một tháng vào ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu (Ngày 20-12-1873) , Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương qua đời. Thương tiếc một trung thần đã hy sinh, Vua Tự Đức thứ 28 tự tay thảo bài văn tế với tình cảm thống thiết và cho đem tên tuổi ông vào thờ ở đền Trung Nghĩa. (Tóm lược bản tài liệu ở Cửa Bắc Thành)     

Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai.- Ngày 3 tháng 4 năm 1882, Trung Tá Henri Riviere từ Saigon ra Hà Nội đóng quân ở Đồn Thủy. Sáng ngày 25 tháng 4 năm 1882,  Henri Riviere gửi tối hậu thư cho Tổng Đốc Hà Nội Hoàng Diệu đòi phải triệt bỏ các công sự phòng thủ và nộp thành cho quân Pháp. Đến sáng ngày hôm sau giặc Pháp, từ pháo thuyền Surprise và Fanfare trên sông Hồng Hà nã đạn đại bác vào cửa thành – ngày nay còn nguyên hai vết đạn đại bác trên tường thành - đồng thời chúng dùng bộ binh tấn công vào các cửa thành khác. Đích thân Tổng Đốc Hoàng Diệu đứng trên mặt thành chỉ huy chiến dấu. Bỗng kho thuốc súng trong thành phát hoả do mấy tên phản quốc tiếp tay cho giặc. Lợi dụng thời cơ, quân Pháp leo lên cửa thành phía Tây, phá cổng thành rồi ồ ạt kéo vào thành. Tổng Đốc Hoàng Diệu biết không thể nào chống cự được, ông đã vào hành cung viết tờ di biểu gửi Vua Tự Đức rồi đến Võ Miếu dùng chiếc khăn chít đầu treo cổ tự vẫn. (Tóm lược bản tài liệu ở Cửa Bắc Thành).     

Trở lại buổi đến viếng thăm Cửa Bắc Thành, chúng tôi đến cổng, thấy cổng đóng, tính quay ra thì một nhân viên gác cổng đang trong giờ ăn trưa, vội chạy ra mở cổng cho chúng tôi vào và ân ần hướng dẫn chúng tôi đi lên lầu thượng của Thành để vào điện thờ thắp nhang đèn chiêm bái hai vị anh hùng: Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương và Tổng Đốc Hoàng Diệu.                                       

Tấm bia tại hồ Trúc Bạch    

Chúng tôi đã về thăm Hà Nội nhiều lần nhưng tuyệt nhiên không hề nghe nhắc tới những trang sử đau buồn trên quê hương đã được lật qua từ lâu, ngay cả sau khi Mỹ bỏ cấm vận cho VN. Chúng tôi đã quên đi tất cả. Nhưng không hiểu sao lần này trước khi về, tôi vô tình đọc được một trang báo mạng nói về bệnh tình của TNS John McCain, tôi chợt nhớ đến người phi công dũng cảm trong lực lượng hải quân HK. Tò mò tôi hỏi viên quản lý KS nơi tôi đang tạm trú về chuyện máy bay của ông bị bắn rơi khu hồ Trúc Bạch Hà Nội năm 1972, nghe nói thành phố có dựng Bia Căm Thù, anh ta trả lời, không nghe thấy ai nói và cũng chẳng hề hay biết vì lúc đó anh ta chưa sanh. Và để tìm hiểu cho ra ngọn ngành, tôi quyết định lấy xe buýt đến Đền Quán Thánh tìm cho bằng được. Do đó, đã bắt đầu trong tôi nẩy ra một đề tài là tìm lại các dấu vết lịch sử cận đại mà trước tiên là từ chiến tranh VN.     

Tôi tiếp tục dò hỏi thêm nhiều người có tuổi ngay khi đi bộ trên đường Thanh Niên (trước 1954 là đường Cổ Ngư), ai cũng đều lắc đầu không biết, tới khi tôi hỏi một bác tài UberBike thì anh ta dẫn tôi tới tận nơi có đặt một tấm bia nhỏ với những giọng điệu tuyên truyền xưa nay của những người tự cho mình là bên thắng cuộc (?). Lúc đó cũng có vài du khách ngoại quốc đang đứng đọc những dòng chữ khắc trên bia. Có vẻ họ không hiểu, nhà tôi giúp dịch qua Anh Ngữ. Họ mỉm cười và cám ơn. Thoáng nghe họ nói với nhau: “Same old, same old… ”. Tôi vội chụp vài tấm hình làm kỷ niệm cho chuyến đi này.

Tác Giả PB trước tấm bia ghi dấu địa điểm HN bắn rơi máy bay của phi công John McCain HK. H2- Nay trở thành nơi Tưởng Niệm Cố TNS John McCain qua đời hôm 25-8-2018 tại Arizona Hoa Kỳ. Để “trải lòng”, một nhân sĩ VN người Hà Nội ngày 27-8-2018 đã trang trọng đến nơi đây đặt mt “Lẵng Hoa Ân Tình” để đời đời ghi ơn vị anh hùng John McCain đã có công hàn gắn vết thưong chiến tranh giữa hai dân tộc VN và HK.

Rời hồ Trúc Bạch, coi lại chương trình đi “thực tế” hôm nay, tôi lại thuê GrabBike đến địa điểm B-52 bị rơi, nghe nói ở khu Ngọc Hà, nơi ngày xưa gia đình gửi tôi từ Hạ Long lên đây trọ học. Chuyến đi này vất vả hơn. Quanh quẩn cả giờ đồng hồ, hỏi ra chẳng ai biết gì cả. Họ cũng chỉ nghe nói… thế này thế nọ…     

Thời gian đã gần ½ thế kỷ trôi qua, lớp người cũ hầu như đã qua đời. Lớp người trẻ hoàn toàn chẳng biết gì đến sự kiện này. Anh xe ôm chở chúng tôi đi cũng mù tịt. Anh ta nhớ là đã có lần cách nay khoảng hai chục năm, anh ta có đưa người nhà đến khu vực này, nhưng thời gian xa quá rồi, anh ta quên mất lối vào. Thành phố Hà Nội đã thay đổi quá nhiều. Đường ngoằn ngoèo ngõ ngách. Người nói đi ngả này, người bảo quẹo ngả kia. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được. Được biết ngày xưa khu này là một xóm nghèo ổ chuột ven đô, bùn lầy nước đọng rất ít người ở, lèo tèo có một vài ruộng rau muống, vài luống hoa… Nay nhà dân ở san sát bao chặt lấy một hồ nhỏ ở giữa ló ra cái đuôi máy bay cùng hai cái bánh xe như một chứng tích chiến tranh. Tôi xuống xe tiến lại gần hồ hỏi chuyện mấy vị cao tuổi về chuyện cái đuôi máy bay này. Mấy người đó nhìn tôi với một vẻ ngỡ ngàng.     

“Chắc ông nà người lước ngoài mới về thăm quê hương hả?. Đây hồ Hữu Tiệp, ngày xưa ló nớn nắm. Chúng tôi từ quê Lam Định lên đây kiếm công ăn việc nàm đã mấy chục lăm lay. Khi tôi đến đây ở thì đã có ló lằm chình ình ở đó. Đuôi máy bay B-52 đấy! Người cũ ở đây lói thế thì chúng tôi biết thế! Chứ tôi đâu có biết gì hơn mà lói!”. 

Vâng! quả đây là phút giây đối thoại rất chân tình mộc mạc với cư dân Ngọc Hà.   

Xa xa về bên phải của hình là một đài kỷ niệm sát mé hồ với hàng chữ khắc trên biển đồng như hình trên.

Đài Tưởng Niệm tại khu phố Khâm Thiên Hà Ni  

Lớp người già tuổi như bố tôi thì chả lạ gì với cái tên Khâm Thiên. Nếu ở Thành phố cảng Hải Phòng có Quán Bà Mau thì Hà Nội có khu Khâm Thiên đã “một thời vang bóng” trong thời kỳ người Pháp xâm chiếm Việt Nam. Lúc ban đầu là người Pháp cho đặt một đài khí tượng ở khu vực này. Nhưng từ đó mọc lên một xóm Cô Đầu. Lúc đầu còn là Cô Đầu Hát, khi các quan chơi nhà ta có bài thơ, bài ca trù nào hay, mang đến nhờ các cô kỹ nữ này hát, các quan cầm trống chầu thưởng ngoạn. Khi các cô hát hay, quan lại thưởng cho bằng tiếng trống “tom tom chat”. Các cụ chúng ta ngày xưa kể lại, nhà Cô Đầu chỉ là nhà thường, ở giữa nhà là một cái phản gỗ rộng trải chiếu hoa cạp điều cho các quan viên vào ngồi ca hát. Bốn góc phản có bốn cái gối gấp để các quan viên dựa khủyu tay nghiêng ngả gật gù cầm chầu đánh trống. Phố Khâm Thiên thời Pháp sau này trở thành “phố cầm ca” từ đấy. Từ khoảng những năm 1939-1940 trở về sau, biến tấu các cô đầu hát ra cô đầu rượu để hầu rượu các quan viên vào chơi. Tuy Phố Khâm Thiên không dài lắm, chỉ hơn 1 km, nhưng hầu như những tư gia đều là nhà chứa cô đầu. Các quan viên vào đàn ca và sau đó nhắm rượu (không phải là kiểu ăn nhậu như bây giờ) do nhà chủ nấu đãi. Dĩ nhiên ăn uống phải trả tiền. Từ đó chuyện gì đã xẩy ra trong cái thú yên hoa này… Người viết lúc đó còn quá nhỏ, sau này được nghe các người lớn tuổi kể lại thế.     

Nhưng đời sống một thành phố cũng như một đời người phải xuôi theo định mệnh, theo những tháng năm lịch sử trong những ngày khỏi lửa trên quê hương…     

Đêm 26 tháng 12 năm 1972, chiến dịch Linebacker II của Không Quân Hoa Kỳ dội bom trừng phạt Hà Nội, trong đó gồm có cả khu Khâm Thiên, làm bình địa một khu vực rộng lớn. Nhiều nhà cửa tan tành cùng một số cư dân bị thiệt mạng. Trong đó có nhà số 47 – 49 – 51 bị san bằng và nay là vị trí khu vườn lập Bia Tưởng Niệm các nạn nhân xấu số trong đêm 26-12. Nhưng hôm tôi tìm đến, công viên đóng cổng vì lý do gì đó, tôi không thể tiếp cận bia tưởng niệm được, nên không rõ trên bia ghi nhận những sư kiện gì. Từ ngoài cổng, tôi cố đưa ống kính máy ảnh vào trong, zoom lại thật gần, nhưng cũng không đọc được chữ gì. Nhưng đoán ra cũng chỉ như kiểu “same old same old…” sau lưng người mẹ bồng con mà thôi. Dĩ nhiên đây cũng là một hình ảnh tang tóc đau thương cho người dân lành trong chiến tranh.

Hỏa Lò  - Hanoi Hilton Hotel-     

Maison Centrale” là nhà tù lớn nhất Đông Dương, rộng 12.000m2, mà người VN thường gọi là “Hỏa Lò” được người Pháp xây dựng từ những năm 1896 đến 1901 để giam cầm những nhà ái quốc VN từ hồi đầu thế kỷ 20: Phong trào Cần Vương, cuộc nổi dậy ở Yên Thế và về sau đến phong trào Đông Du. Nhưng lẫy lừng nhất trong lich sử VN là nơi giam giữ nhà cách mang Nguyễn Thái Học sau này…


Cỗ Máy chém

Nhà tù được xây dựng kiên cố bằng những vật liệu vận chuyển nhất thiết phải từ Pháp mang qua: cửa sắt, kính cửa sổ, ổ khóa, then cài, bản lề cửa sắt… Dọc theo đường Hỏa Lò, bức tường nhà tù được sơn  màu vàng cố hữu trông vẫn như một dấu tích lịch sử từ thời thực dân Pháp chiếm đóng; xây bằng đá cao 4m, dầy 0.5m trên đỉnh tường có ghép mảnh chai sắc bén nhọn và đường dây điện cao thế để đề phòng tù vượt ngục. Người Pháp đã hãnh diện xây được một nhà tù “No body in, no body out” và ngay cả “an ant could not get through it”. Nhưng nói vậy thôi, chứ từ đêm 11 đến 16 tháng Ba năm 1946, lợi dụng thời gian Nhật tước khí giới hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương, nhiều tù vượt ngục thành công qua đường ống cống.              

Text Box:                 Photo @  TUYBUT
     

Mãi đến năm 1993, thành phố Hà Nội mới quyết định phá hủy hầu hết các cơ sở của nhà tù Hỏa Lò cũ đ xây Hanoi Towers, chỉ để lại hơn 2000m2 nhà tù làm nơi trưng bày như một di tích lịch sử để “câu” khách du lịch trong đó có xà lim ngục tối, cùm chân bằng sắt… trong những phòng giam có tường dầy bốn mươi (40cm – hai gang tay) và kinh khủng nhất là cỗ máy chém còn nguyên vẹn “hình hài”, đã từng được di chuyển khắp xứ Bắc Kỳ để tử hình nhiều nhà cách mạng VN. Trong đó có anh hùng Nguyễn Thái Học đã hiên ngang bước lên đoạn đầu đài tại Yên Bái trong số 13 nhà ái quốc VN vào ngày 17 tháng Sáu năm 1930. Máy chém (Guillotine) này do một Bác Sĩ Y Khoa (Medical Doctor) người Pháp tên là Guillotane “phát minh” ra, và được cho là một dụng cụ gìết người khá “nhân đạo” (more humane) hơn các phương pháp hành quyết thời Trung Cổ (ngựa xé, băm chặt…) được chính phủ Pháp mang từ Pháp sang. Đến tận nơi, sờ tận tay, thấy tận mắt, dù máy “giết người” này đã trải qua gần một thế kỷ, nhưng khung thép bộ máy chém được lau chùi sáng nhoáng, không một tí rỉ sét nào… cùng với chiếc chậu bằng nhôm trắng để hứng máu và đựng “thủ cấp của tội phạm” trông như ố “xẫm mầu đồng”. Tôi rùng mình. Khấn nguyện…   


Thời gian sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, Hỏa Lò là nơi giam giữ tội phạm xã hội. Nhưng từ sau vụ tầu Maddox của HQ/HQ bị tấn công trên vịnh Bắc Việt (Aug. 1964), chiến cuộc VN lan tràn ra Bắc qua những cuộc oanh tạc ngày đêm của KQ/HK. Do đó từ 1964 đến 1973, Hỏa Lò là nơi giam giữ những tù binh phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi trên địa phận Bắc Việt. Tù binh Phi công Hoa Kỳ đầu tiên tại đây là Trung Úy Everett Alvarez Jr. Trong số những tù phi công sau này có phi công Douglas Pete Peterson sau là Đại Sứ Hoa Kỳ tại VN và đến Thiếu Tá phi công John McCain bị giam giữ đến 5 năm rưỡi, sau này là Thượng Nghị Sĩ và là ứng viên Tổng Tống Hoa Kỳ năm 2008. Các tù binh Hoa Kỳ (POWS) đặt lại tên cho nhà tù Hỏa Lò là Hanoi Hilton. HANOI TOWERS - mặt sau, nay chiếm gần hết quần thể nhà tù Hoả Lò.

“Tấm bia cô đơn và bát nhang hương lạnh khói tàn” trước Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Saigon.     

Đã nhiều lần, khi đi xe qua Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ trên đường Lê Duẩn (xưa là đường Thống Nhất) Saigon, tôi đã thấy một tấm bia được dựng lên với một bát nhang cao to trên bệ ngay góc đường Lê Duẩn và Mạc Đ. Chi nhưng chưa có dịp nào đến tận nơi xem. Lần này, nhân có việc phải đến khu shopping nhà kính xanh gần Nhà Thờ Đức Bà, tôi vội đi dọc xuống Lãnh Sự Quán nơi rất đông người Saigon đang xếp hàng dọc theo bờ tường toà LS để xin visa đi Mỹ. Tiện tôi hỏi một nhân viên bảo vệ đứng gác cổng, có lẽ là CA, là tôi có thể chụp hình tấm bia ở góc đường đằng kia được không? Anh ta trả lời nguyên văn như sau: ”LS Quán Mỹ ra lệnh, cấm không cho phép ai đuợc chụp hình phía trước, ngay cả việc đưa ống kính hướng về phía khuôn viên Lãnh Sự quán”. Nghe vậy, tôi biết làm sao bây giờ? Khó nghĩ thật! Mình tuân theo luật bên Mỹ quen rồi. Yes là Yes, No là No. Đành chịu! Nhưng rồi, mấy hôm sau, vào một chiều xẫm tối, tôi có việc gia đình phải ghé xuống khu Dakao bằng xe taxi. May sao khi xe từ phía Dinh Độc Lâp chạy xuống phiá Sở Thú, khi đến góc đường Lê Duẩn-M.Đ.Chi vừa lúc gặp đèn đỏ, xe phải ngừng lại chờ. Vì lúc nào tôi cũng lăm le máy hình trong tay, nên vội vã quay kính xe xuống, bấm đại được mấy pô. Tuy không rõ trên tấm bia ghi những chữ gì ngoài hình dạng tấm bia cô đơn và cái bát nhang tàn khói ở vị trí một góc đưng. Nhưng chắc đại loại cũng chỉ là “same old, same old…” mà nhiều người đều không quên vào đêm 31 tháng 1 năm 1968, Mùng 1 Tết Mậu Thân, Cộng quân đã đột kích Toà Đại Sứ HK Saigon tại vị trí này làm 4 lính Hoa Kỳ tử thương sau khi TQLC tiêu diệt được 17 đặc công CS và bắt sống được 2 tên khác. (Theo phóng viên Don North, hãng thông tấn ABC )

Bàn thờ Ông Nguyễn Cao Kỳ tại Chùa Vĩnh Nghiêm Saigon.

(Trích đoạn từ BÊN KIA BỜ NHỚ của PHẠM BÁ do Cơ Sở Văn Học Cỏ Thơm HTĐ phát hành Tháng 3/2018)

Chùa vẫn giữ được nét cổ kính như ngày nào, nhưng nghe nói Chùa bây giờ là Chùa của nhà nước. Đi sâu vào bên phải phía trong chánh điện, bất chợt tôi thấy một bàn thờ trang nghiêm đặt tại một nơi riêng biệt. 

Tôi tiến đến gần nhận ra ngay là bàn thờ Tướng Nguyễn Cao Kỳ với bài vị mầu vàng kế bên: “NGUYỄN CAO KỲ - Pháp Danh Thiện Không -   TỌA VỊ”. Tôi tần ngần có hơi xúc động vì ngạc nhiên trông thấy thế mà từ trước đến nay chưa có Việt Kiều nào ở Mỹ về chơi cho biết. Hay có thể họ biết nhưng không muốn nêu ra. Nghĩa tử là nghĩa tận, một thời ông đã là Tướng và là Phó Tổng Thống của VNCH, bỏ qua quan điểm về chính trị, tôi nguyện thầm cầu ông sớm được siêu thoát. Thiết nghĩ, sự kiện nhà Chùa đặt bàn thờ riêng cho ông tại một vị trí trang nghiêm như thế này, không phải là chuyện đơn giản. Được biết, lúc ông còn làm Chủ Tịch UBHP Trung Ương, ông đã ký nghị định cấp khu đất này cho Giáo Hội PG để làm Chùa. Hẳn ông đã gieo nhân lành, để rồi ngày nay qua bao nhiêu trở ngại sau cái chết của ông, ông đã được miên viễn an vui về Miền Tịnh Độ. Tôi tin thế …

Nhân đây, tôi chỉ làm công việc lượm lặt thông tin lẩn thẩn trong chuyến về thăm quê để góp vui bạn đọc mà thôi. 

Tượng Quách Thị Trang

Nếu nói theo ca từ của chàng NS trẻ tuổi Việt Khang: “thời gian đã quá nửa đời người” từ 1963, chẳng ai muốn lật lại trang sử đau buồn của đất nước. Nhưng người viết phải nhắc đến chỉ là “chuyện chẳng đặng dừng” khi đi ngang qua khu Chợ Bến Thành ngày nay, bùng binh Quách Thị Trang trước Chợ, đang bị đào xới lên làm Nhà Ga Metro tuyến Saigon-Suối Tiên, nhìn mãi chả thấy tượng cô nữ sinh 15 tuổi Quách Thị Trang. Tò mò, người viết lại mất nửa buổi đi tìm dấu tích pho tượng này đã được di dời đến công viên Bách Tùng Diệp góc đường Lý Tự Trọng và Nam Kỳ Khởi Nghĩa từ 9 tháng 1 năm 2015.

Ghi nhận tới đây, người viết chợt nhớ đến hai câu thơ trong bài “Nguyện cầu ” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, xin trang trọng được dùng làm kết ý cho đoạn văn:

 “Ta còn để lại gì không
  Kìa non đá lở, này sông cát bồi…” (VHC) 

Bia Căm Thù quân Pol Pot

Nhìn lại lịch sử VN những năm sau 1975, hẳn không ai quên được, quân Khmer Đỏ Pol Pot cầm quyền ở Campuchia từ 1975 đến 1979 đã tàn sát hơn 2 triệu người Miên trong tổng số dân hơn 7 triệu người bằng các dụng cụ: dao, cuốc, xẻng… Ngày 14 tháng 3 năm 1978, quân Khmer Đỏ vốn truyền thống đã căm thù dân Việt, hết cáp duồn, rồi lại xua thổ phỉ Đỏ qua khu biên giới Hà Tiên cướp của và giết dân lành Việt Nam vô cùng tàn nhẫn: đập đầu con nít vào gốc cây, cắt cổ nông dân Việt… bằng một thứ võ khí là tầu lá cây thốt nốt khô cứng hơn sắt thép. Người viết đã đến thăm viếng Khu Văn Hóa Thạch Động Hà Tiên, đến tận thân cây thốt nốt này, sờ vào những đốt nhọn cứng sắc hơn răng cưa như muốn đứt tay… Bọn Pol Pot đã dùng làm cưa cứa cổ nông dân người Việt. Ôi! Dã man, tàn nhẫn quá…!

Vết thương của Dân Tộc!     

“Dọc đường gió bụi” trên đất nước mến yêu từ  Bắc xuống Nam mà tác giả bài viết đã có dịp đi qua, đã bắt gặp biết bao nhiêu là “vết sẹo thời gian”, nhưng có lẽ vết sẹo cuối cùng trong bài viết này đã trở thành một vết thương không bao giờ lành của cả dân tộc. Xin mời đọc một trích đoạn ký sự:

“… Ngày 30.4.1975:        

4 giờ sáng: Đại Sứ Graham Martin cùng đoàn tùy tùng hối hả bước lên chiếc trực thăng cuối cùng vừa hạ cánh xuống nóc Toà Đại Sứ Mỹ tại đại lộ Thống Nhất để ra khỏi Saigon. Tuy vậy, đường Thống Nhất và đường Hồng Thập Tự, trước và sau Toà Đại Sứ Mỹ vẫn còn là tụ điểm di tản của rất đông cư dân Saigon trong cơn hoảng hốt.        

9 giờ 30 sáng: Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Tức thì Alan Dawson, phóng viên UPI đánh đi một điện tín cuối cùng về Tổng Hành Dinh UPI tại Nữu Ước, đồng thời gửi tới 7,500 máy tê-lê-típ trên khắp thế giới tin Saigon thất thủ:                                                           

"ZCZC VILAO 25 NXI
Ha tc ...
Saigon - Chính Ph Saigon đầu hàng.
NTL 10.21 sáng". 

Thôi thế là hết...
Saigon ơi!...     
Hôm nay, ngồi đây... nhìn lại đời mình…     … 

Xin một lần kính cẩn nghiêng mình đặt một vòng hoa muộn, thắp một nén nhang thầm để Vinh Danh Những-Người-Nằm-Xuống mà cuộc đời của họ như đã tự gắn liền vào vận mệnh nổi trôi của Tổ Quốc. Và cũng xin trang trọng trao tặng Những-Người-Còn-Lại một Đóa Hồng Nhung sau hơn hai mươi năm trường chinh gió bụi với hơn bốn mươi năm giã từ đội ngũ... Cho dù đường anh đi không bao giờ đến... nhưng các anh đã thực hiện được di chúc của tiền nhân: "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".      

Nhưng thời gian ơi!... Dù đã hơn một phần ba thế kỷ trôi qua, có cuộc thay da đổi thịt nào mà không nhức nhối chân thân? Thiết nghĩ không cần phải dối lừa ký ức, thời gian vẫn chưa đủ để những vết thương không còn mâng mủ...        

Đó chính là Tình Yêu và Thân Phận của Người Chiến Binh Cộng Hòa sau mùa binh lửa.

Chỉ những mong những ngày chinh chiến đi qua đời mình, chập chờn như một cơn ác mộng và cũng ước mong những ngày còn lại trong đời không còn những bất bình như Giấc Nam Kha...           

Ôi!... Những Mùa Xuân vô  thường...          

Ôi!... Một quê hương bất hạnh…

PHẠM BÁ