Sinh năm 1940 tại Nha Trang. Cử nhân Triết (Viện Đại Học Đà Lạt,
1961). Dạy môn Triết tại các trường trung học Ngô Quyền (Biên Hòa) và
Petrus Ký (Sài Gòn, 1961-1975). Thư ký tòa soạn tạp chí Văn tại Sài Gòn
(1972–1974). Sau khi định cư tại Hoa Kỳ năm 1985, ông làm việc cho báo Người Việt (1986–1997), tạp chí Thế Kỷ 21 (1989–1994), và chủ
nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Văn từ năm 1996. Ông cũng từng giảng dạy Văn học Việt Nam đương
đại tại Đại học California, Berkeley.. Tác phẩm tiêu biểu của ông
gồm: Mù sương (1966), Sinh nhật (1968), Khu rừng hực lửa (1972), Kẻ tà đạo (1973), Người đi trên mây (1987), Sa mạc (1989), Bụi và rác (1996), Ý nghĩ trên cỏ (1971), Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu (1974), Căn nhà ngói đỏ (1989). Ông qua
đời ngày 13 tháng 9 năm 2014 tại San Jose, California.
CHUYỆN KỂ TRÊN ĐỒI CAM
1.
Cuối mùa hè rồi, tôi đem đứa con gái nhỏ xuống Cali. Thật ra, có
lẽ tôi phải nói là dọn sang Cali mới đúng. Con tôi năm nay được tám tuổi.
Bataan nói với tôi là con nhớ mẹ. Tôi hiểu điều đó nhưng đành chịu, không biết
cách nào giải thích cho con.
Bataan là đứa con duy nhất của chúng tôi. Tôi lấy Nga cuối năm bẩy
chín sau khi ở trại học tập cải tạo ra. Nga là em gái của một người bạn cùng
trại tù với tôi. Anh ấy tên Ðông… Ðầu năm bẩy chín tôi bị đưa về Hàm Tân rồi
được thả, còn Ðông bị đẩy ra Bắc.
Tôi đến thăm gia đình Ðông ngay khi ra khỏi tù. Ba má Ðông đã già. Ðó là một gia đình người Nam, rất Nam kỳ quốc. Lần đầu
tiên gặp ba Ðông, tôi thấy ông mặc một bộ đồ bà ba trắng, đeo kính lão loại
tròn như hai chữ O, thòng xuống sống mũi. Ông ưa nói chuyện thời sự thế giới và
tình hình chính trị hơn là hỏi về con trai mình. Má Ðông thì rất ít nói. Bà chỉ
lặng lẽ khóc khi dọn cơm cho tôi ăn và gợi tôi kể chuyện tù, thỉnh thoảng hỏi
đôi câu về đời sống tù của Ðông. Bà nhắc những tật của Ðông như nói lắp, ưa cãi
và làm biếng. Tôi cho bà biết Ðông tuy bệnh nói lắp vẫn còn, nhưng không phải
là người ưa cãi. Anh ấy nhiều lúc im lặng như hòn đá. Còn cái tật làm biếng thì
anh ấy nổi tiếng khắp trại. Ðông chỉ hay nói một câu mà tôi còn nhớ đời ”Cái
ông gì gì đó cho rằng nếu phải nhổ một sợi lông chân mà làm thay đổi cả thế
giới thì ổng cũng không nhổ. Còn tao, thế giới nó đang thay đổi tao, mắc mớ gì
tao phải nhổ lông chân chớ!” Tôi được ăn một bữa cơm gia đình ngon không thể
tưởng. Món mắm và rau của người Nam, tôi đã từng nhiều lần thưởng thức, nhưng
chưa bao giờ tôi thấy ngon như hôm đó. Có lẽ thấp thoáng giữa câu chuyện trong
tù - ngoài đời, tôi được hỗ trợ bằng đôi mắt trong sáng của Nga. Nga lúc đó mới
mười tám tuổi, còn tôi đã ba mươi. Một tháng sau, chúng tôi lấy nhau.
2.
Ðầu năm tám mươi chúng tôi
vượt biên. Vàng bỏ ra mua chuyến đi cho hai đứa là của gia đình Nga. Tôi có gì
đâu. Cuộc hải trình rất là thuận buồm xuôi gió. Chúng tôi đến Phi Luật Tân, lên
đảo Palawan, sau đó chuyển sang Bataan.
Tại đây Nga sanh cháu gái
mang tên của trại tạm cư này. Chưa đầy một năm sau chúng tôi đi Mỹ. Người bảo
trợ có bà con xa bên phía tôi. Nga chỉ muốn đi Mỹ, chớ không chịu đi Pháp, mặc
dù Nga còn có mấy ông anh bà chị đi du học bên đó từ trước bẩy lăm.
Suốt gần bẩy năm trời ở
Virgina, tôi chỉ có một địa chỉ duy nhất, đó là căn nhà thuê trên đường Năm
Mươi, thành phố Falls Church. Tôi làm đủ thứ nghề, nhưng không nghề gì ra nghề
gì. Từ ”nghề” (tôi sợ mình lạm dụng chữ nghề này lắm) đi nhét giấy quảng cáo
bán nhà cho một cơ sở địa ốc, cho đến ”nghề” thợ sơn, ”nghề” thợ điện vịn,
”nghề” lau chùi các cửa hàng trong khu thương xá người Việt, ”nghề” hầu bàn cho
một tiệm ăn Tàu… ” nghề” gì tôi cũng làm. Tôi vẫn nghĩ bụng, tưởng đã chết rục
trong tù, sống thế này đã là hạnh phúc lắm rồi! Chỉ có một điều cần làm là đi
học ngay tiếng bản xứ thì tôi lười biếng. Có thể tôi vốn là thằng sợ chữ nghĩa.
Từ nhỏ tới giờ tôi chưa bao giờ đọc hết một cuốn sách mà không ngủ gà ngủ gật.
Nga trông cháu Bataan khi tôi đi kiếm tiền và khi tôi trở về mệt mỏi với những
thứ công việc tay chân thì cô ấy giao cho tôi một công việc nhẹ nhàng khác là
giữ con cho cô đi học. Nga học giỏi, đọc báo đọc truyện một cách say mê, nói
tiếng Anh lưu loát, hội nhập đời sống Mỹ nhanh. Cô tốt nghiệp ngành điện toán
về thảo chương trình. Ðó là Nga dịch ra cho tôi như vậy về chữ Computer
Programmer.
Căn nhà chúng tôi ở ngó ra
đường Năm Mươi. Ðó là một con đường khá nhộn nhịp. Nó chạy thẳng qua thủ đô Hoa
Thịnh Ðốn, nơi mà tôi đã từng nghe tiếng khi còn ở Sài Gòn. Hai cha con tôi lúc
rãnh rỗi có dịp vào xem các Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật. Hoa Thịnh Ðốn vĩ đại với
những tượng đài và cả lịch sử hình thành của nó. Con sông Potomac mùa đông đóng
băng. Chim chóc đi lại trên đó như đi trên đất liền. Mùa thu ở Virginia thì
khỏi nói. Nó còn đẹp hơn trong tranh vẽ nữa kìa.
3.
Nga là một người vợ dễ
thương. Cô ấy ít nói. Tôi thích người đàn bà ít nói. Cô ấy lại dịu dàng, chiều
chồng và thương yêu con. Bao giờ cũng vậy tủ lạnh nhà tôi đầy bia và đồ nhậu.
Nga không bao giờ để tôi phải đòi hỏi một thứ gì. Mà thật ra tôi không biết
mình muốn gì để mà đòi ngoài tình yêu của vợ con. Tôi đang có một đời sống thần
tiên so với những ngày trong tù cải tạo. Tôi tự do đi đứng. Tôi lao động có
tiền, dù là số tiền ấy hơi khiêm tốn. Tôi có trong tay một người đàn bà thông
minh, xinh đẹp và dịu dàng. Và tôi còn có một đứa con gái ngoan. Bataan luôn
miệng nói con yêu cha nhiều hơn yêu mẹ.
“Tại sao?”
“Không biết!”
Bataan trả lời bằng tiếng
Mỹ, lên giọng xuống trầm êm tai lắm. Sau cùng Nga cũng tìm được một việc làm ở
bên D.C. Một việc làm nhẹ nhàng nhưng lương bổng hậu. Người chủ đối xử với Nga
khá tốt. Nga ăn mặc rất hợp thời trang. Tôi có cảm tưởng như mỗi ngày Nga một
đẹp hơn. Cái cảm tưởng ấy càng làm tôi thấy mình hạnh phúc hơn.
Ở Hoa Thịnh Ðốn có nhiều
người da đen nghèo. Mùa đông năm rồi, có một người da đen nằm chết cóng trong
nhà lồng bằng sắt giữa một công viên đầy hoa ngay phía trước Tòa Bạch Ốc. Nhưng
một số người Ðại Hàn và cả người Việt Nam nữa thì lại khá thành công về mặt
thương mãi. Lương bỗng thì ai cũng rõ, Nga hơn tôi nhiều. Tay hòm chìa khóa cô
ấy nắm hết. Ðôi khi Nga đùa nói với tôi lương anh không đủ cho en mua son phấn
quần áo. Tôi chỉ biết cười.
Tôi đi lính năm hai mươi
tuổi. Ở tù bốn năm, lấy vợ khi chẳn cái tuổi ba mươi. ”Tam thập nhi lập”, cha
tôi hay nói như vậy. Nhưng tôi có ”lập” được cái gì đâu. Những ngày ra tù sống
lông bông lêu bêu trên hè phố nhiều hơn là trong nhà. Không có ”hộ khẩu” không
có công ăn việc làm. Tôi là kẻ sống ngoài lề xã hội mới. Công an phường đưa
giấy cho tôi, bắt đi kinh tế mới. Kinh tế mới? Ðó là những căn chòi xác xơ, nằm
bên một con kinh đào khô nước. Nhìn quanh quất tứ bề chỉ thấy khổ nhục. Ngay cả
những nụ cười cũng chỉ là gượng mà thôi.
Gia đình Nga đã cho tôi
một đôi đũa thần tiên là Nga. Tôi bỏ lại sau lưng cuộc chiến tranh mà tôi đã
từng tham dự. Tôi xin Nga hai tháng một lần cho tôi đóng thùng quà gởi về cho
Ðông hiện đang ở trong một trại cải tạo trong Nam. Nga không phản đối (tất nhiên
Ðông là anh ruột cô ấy chớ đâu phải anh ruột tôi) nhưng cô ấy có vẻ không vui.
Tôi thì tứ cố vô thân. Gia đình không còn ai. Cha mẹ tôi đã chết từ năm bẩy
hai. Tôi còn một bà chị, nhưng chị đã biệt tích từ năm bẩy lăm.
4.
Một buổi tối cuối tháng
Tám, tôi từ sở làm trở về (tôi đang làm việc lau chùi một khu thương xá người
Việt có tên là Eden), Nga đón tôi ở cửa. Cô ấy ăn mặc đẹp và gọn như một người
chuẩn bị đi xa. Tôi ngạc nhiên lắm. Nếu có người nào tình cờ thấy hai chúng tôi
có lẽ họ khó mà nghĩ chúng tôi là một cặp vợ chồng. Tôi xuề xòa quá. Mà không
xuề xòa cũng không được. Ði lau chùi sàn nhà, cửa kính cho người ta mà ăn diện
như làm thư ký văn phòng thì coi sao phải, nhưng rõ ràng là Nga ăn mặc đẹp hơn
thường lệ. Mà thường ngày thì cô ấy cũng đã diện lắm rồi. Áo quần, giầy dép
vòng đeo bông tai, nước hoa, không thứ nào có trên người Nga mà không phải loại
khá đắt tiền. Hôm nay Nga như một người mẫu trong một buổi trình diễn thời
trang.
“Em muốn nói chuyện với
anh”
Nga đặt cả hai tay lên vai
tôi, nhìn thẳng vào mặt tôi nói nhỏ nhẹ có phần âu yếm hơn thường lệ.
“Em làm gì mà quan trọng
dữ vậy?”
Tôi hỏi mà vẫn không hiểu
gì hết.
“Em có việc phải đi xa một
thời gian”.
Nga nói như thể tôi và cô
ấy chỉ là hai người chưa hề sống chung với nhau, chưa hề có với nhau một đứa
con, chưa hề là vợ chồng.
“Ði xa?
Mà em đi đâu?”
“Anh không cần biết em đi
đâu. Mà anh muốn biết, em cũng không nói đâu”.
Tôi gỡ tay Nga ra, đến
ngồi xuống ghế ở bàn ăn bên nhà bếp… Nga đến ngồi đối diện với tôi. Cô đưa tay
lên coi đồng hồ.
“Chừng nửa giờ nữa em sẽ
lên phi trường Dulles. Anh sẽ không hỏi gì em, phải không?”
Tôi còn biết hỏi gì. Nửa
giờ sau có tiếng chuông cửa, Nga bật dậy.
”Bataan đang ngủ, anh đừng làm con thức. Anh trông con giùm
em”.
Nga ôm mặt tôi hôn nhẹ nhàng như một người em gái hôn anh. Như vậy
đó chúng tôi chia tay.
5.
Cali đang mùa Thu.
Hồi đầu tháng Chín, khi hai cha con tôi vừa đặt chân tới Cali,
trời nóng dễ sợ. Tôi nghĩ chắc là mùa hè sắp đến, nóng một trận chia tay để đi
vào mùa Thu. Nhưng dân Cali thì nói khác. Họ cho rằng Cali sắp động đất. Bao
giờ cũng vậy trước khi có động đất đều có một trận nóng dữ dội như vậy. Nó báo
hiệu cơn thiên tai mà người dân Cali sẽ phải gánh chịu, vì sự phồn thịnh quá
đáng của nó.
Ðộng đất đối với dân Cali là một người khách không được mời, nhưng
người chủ nhà biết rõ là họ đang phải chờ đợi. Bởi vì trước sau gì ông khách
quý ấy cũng sẽ đến.
Mấy bữa nay thực sự là Cali đang đi trong mùa Thu.
Buổi sáng đôi khi có sương mù, đôi khi có chút mưa phùn rẩy nhẹ
bụi nước trên đầu trên tóc. Ðêm… đôi lúc trời mù sương lái xe phải mở to mắt
lên mà nhìn nếu không muốn bị tai nạn hay bị lạc đường. Trời sáng trưng mà tôi
còn bị lạc đường, nói chi là lái xe trong sương mù.
Bataan đã đi học. Tôi vừa xin được một việc làm cắt cỏ do một ông
người Việt làm chủ. Bạn tôi bây giờ là những người Mễ. Cũng như tôi, tiếng Anh
họ dở lắm. Tôi tin là nghề cắt cỏ có thể ở với tôi lâu được. Ít ra là lâu hơn
thời gian tôi sống với Nga.
Những giờ rãnh rỗi tôi thường dẫn Bataan ra chợ Việt Nam lượm báo
biếu đọc. Tôi thấy người Việt ở đây giàu có quá. Hơn trên Virginia, Hoa Thịnh
Ðốn và Maryland nhiều. Tôi cũng biết thêm nhiều tin tức về Việt Nam. Tôi hi
vọng Ðông đã ra khỏi tù cải tạo, và sẽ được đi Mỹ định cư theo một thỏa ước nào
đó giữa Hoa Thịnh Ðốn và Hà Nội.
Trong giấc mơ, Bataan thường kêu mẹ ơi, mẹ ơi. Tôi thì không thấy
gì hết. Tôi nghĩ rằng Nga đang hạnh phúc ở một nơi nào đó với một người nào đó.
Người nào có được trong tay một người đàn bà kiểu đó mà không hạnh phúc! Nhiều
lúc ngừng tay cắt cỏ, tôi giật mình tự hỏi không biết tôi đang ở đâu và có
thiệt là tôi đã từng có một người đàn bà sống chung mà xã hội gọi là vợ
không?
Buổi sáng dậy sớm, nhìn Bataan còn ngủ say trên giường, tôi thấy
sao nó giống Nga cách gì. Tôi tự an ủi mình là tôi đâu có mất gì. Tình yêu vợ
đã mất, nhưng tình yêu con đã thay vào. Trước kia hai người sống với nhau, bây
giờ cũng vẫn hai người. Biết đâu chừng, nếu Nga còn sống trong nhà, lại thừa ra
một người chăng. Vả lại, từ ngày chia tay đến nay, tôi không hề nhận được thư
từ hay điện thoại gì của Nga. Nhiều khi tôi nghĩ hạnh phúc làm người ta mất trí
nhớ. Quên như Nga không chừng cô ấy hạnh phúc. Tôi không mong cô ấy gọi tôi.
Yêu người nào là muốn điều tốt cho người đó. Chỉ có nỗi đau khổ và bất hạnh mới
làm Nga nhớ đến hai cha con tôi.
Tôi đâu có muốn vậy. Dù sao đôi khi tôi vẫn nghĩ là sống như thế
này vẫn hơn. Nhưng mà Cali mấy hôm nay nóng thiệt là nóng. Không chừng động đất
tới nơi.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG
Tháng 8.1986
Nguồn: sưu tầm từ internet