Thứ Ba, 24 tháng 6, 2025

507. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 82 : LÊ ĐỨC LUẬN Dòng sông định mệnh.

Nhà văn Lê Đức Luận

Sinh năm 1944 tại Tuy Hòa, Phú Yên. Tốt nghiệp Khóa 1, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Cử nhân Chính trị học, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Trước năm 1975: sĩ quan phục vụ trong ngành CTCT/ QLVNCH. Đơn vị sau cùng: Ủy Ban Binh Thư thuộc Tổng Cục/ CTCT. Sau 1975, ở tù 7 năm. Sang Mỹ định cư tại Virginia vào năm 1986. Nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo năm 2023. Đã xuất bản: NGƯỜI MẸ TÌM CON (Truyện ký, 2022).                       

DÒNG SÔNG ĐỊNH MỆNH  

Dòng sông! Nó hiện hữu trong thiên nhiên từ khi khai thiên lập địa như muôn thứ đã có trên quả đất này - tự nó ngàn đời không thay đổi - gom nước từ đầu nguồn rồi khơi dòng chảy ra biển cả. Con người đặt cho nó cái tên là Dòng Sông.

Khi thêm vài chữ kèm theo với dòng sông như: dòng sông êm đềm, thơ mộng hay là dòng sông oan nghiệt, ô nhục… Các thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ dựa vào đó mà “thổi vào” dòng sông “cái linh hồn” và làm ra những tác phẩm rung động lòng người.

Nhưng có một chữ đi kèm với dòng sông - chữ “định mệnh”- đã biến dòng sông thành chỗ riêng tư. Dòng Sông định mệnh chính nó đã ấp ủ và nuôi dưỡng con người hay một cơ duyên nào đó đưa đẩy con người đến với nó. “Dòng sông định mệnh”- nơi con người đã từng gắn bó với nó và cho họ những cảm xúc dạt dào. Và chính những con người đó mới nói lên hay tạo được tác phẩm tuyệt vời.

Các văn nhân, thi sĩ khó lòng nói thay hay chế tác hư cấu. 

Trong đời, ai cũng có những kỷ niệm về một dòng sông. Có những dòng sông lưu trong ký ức, nhưng rất ít được gọi là “dòng sông định mệnh”.

Với tôi, có ba dòng sông lưu trong ký ức và hai dòng sông tôi đã sống chết với nó do định mệnh an bài. Tôi gọi đó là “dòng sông định mệnh”.

Khi thầy, cô giáo dạy tôi tập đọc và học thuộc lòng những bài văn của các nhà văn Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân miêu tả dòng sông Hương ở Huế - êm đềm, thơ mộng - dòng nước trong veo, phẳng lặng như tờ… Hỉnh ành đó đã đi vào ký ức của tôi từ thuở đầu đời.

Khi lên Trung học, học sinh phải học hai ngoại ngữ: Pháp văn và Anh văn. Sách giáo khoa thời bấy giờ có Cours  de Langues (gồm 4 quyển) cho Pháp văn; English For Today (gồm 4 quyển) cho Anh văn. Nhờ mấy quyển sách này mà tôi biết dòng sông Seine chảy qua thành phố Paris nước Pháp và dòng sông Potomac ôm ấp thủ đô Washington D.C. của Mỹ. Thời đó, nhìn trên bản đồ, thấy hai dòng sông này cách xa vạn dặm, tôi như đứa trẻ nhìn trăng, thấy chú Cuội ngồi dưới gốc cây đa và không nghĩ có một ngày mình sẽ đặt chân đến những nơi này.

Nhưng hai dòng sông đó đã đi vào ký ức, vì tôi cảm nhận cái nên thơ và lãng mạn của nó qua các bài văn. Mấy mươi năm sau, không ngờ, có một dòng sông đã trở thành “Dòng Sông Định Mệnh” của đời tôi. Đó là dòng sông Potomac.

Còn một dòng sông đã đi vào ký ức, khi tôi có ý thức về chính trị. Đó là dòng sông Bến Hải - một dòng sông hiền hòa bỗng trở thành “dòng sông oan nghiệt” - nó chia đôi đất nước tôi và lịch sử Việt Nam ghi thêm một trang ô nhục - khiến tôi ngậm ngùi!

Đã nói về ba dòng sông đã đi vào ký ức. Bây giờ, tôi kể chuyện hai dòng sông định mệnh: Dòng sông Đà Rằng ở quê tôi và dòng sông Potomac trên đất khách.

Không biết tự bao giờ, khi tôi được sinh ra đời đã có con sông Đà Rằng. Dân quê ở thượng nguồn gọi nó là con sông Ba, ở hạ lưu người ta gọi là sông Đà Rằng và sách địa lý cũng ghi như thế.

Tôi gắn bó với dòng sông Đà Rằng trên hai mươi năm và có “một trời” kỷ niệm…

Kể sao cho hết cái thích thú của những lần tắm sông cùng lũ nhóc trong làng vào những buổi trưa hè… Mùa hè nước cạn, trong veo… phơi ra bờ cát mịn. Lũ trẻ chúng tôi tha hồ bơi lội, có lúc ra giữa lòng sông. Khi nắng lên cao, lũ trẻ men theo bờ cát vào soi (1) nhổ những cây rau đắng mọc dại ven bờ về cho mẹ phơi khô để nấu chè rau đắng - hương vị nồi chè rau đắng rất đặc biệt - chỉ quê tôi mới có. Khi nào có dịp ghé quê tôi, tôi sẽ mời bạn thưởng thức chén chè rau đắng.

Đó là chuyện hiền hòa, dễ thương của dòng sông Đà Rằng vào mùa hạ.

Nhưng sang mùa đông nó “cuồng nộ” đến phát sợ - nước đục ngầu từ nguồn đổ về cuồn cuộn, chảy xiết… cuốn trôi mọi thứ ven bờ. Nhưng sau cơn “cuồng nộ”, dòng sông phủ lên những cánh đồng đất mịn phù sa mầu mỡ, giúp cho dân làng có một vụ mùa bội thu năm tới.

Còn tôi có cái thú vui vào mùa bão lũ là theo cha đặt lờ bắt cá. Các loại cá như cá rô, cá trắng, cá tràu (cá lóc) ngược dòng nước lênh láng khắp cánh đồng tìm nơi đẻ trứng. Chúng nó dại khờ chui vào những cái lờ bóng bẩy mà cha tôi đặt chỗ nước chảy. Ca dao có câu: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt/ Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”. Tôi không biết diễn tả làm sao cho hết cái “khoái” khi đi “giở lờ” (nhấc cái lờ khỏi mặt nước) - năm bảy con cá rô đỏ hoe con mắt - rùng rùng trong lờ! Cha tôi cười, còn tôi reo lên khoái chí, mở nắp giỏ cho cha đổ cá vào.

Tôi sống, tôi vui với dòng sông Đà Rằng trong thời niên thiếu. Năm hai mươi tuổi, tôi xa nó để vào Sài Gòn tiếp tục việc học hành, rồi lên Đà Lạt gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Từ đó, đời tôi nổi trôi theo vận nước với bao gian truân và nghiệt ngã - mười năm lính, bảy năm tù cải tạo làm hao gầy trí lực. Dòng sông Đà Rằng chỉ còn trong hoài niệm. Nhưng khi ai hỏi: “Mi ở xứ mô?” - tôi ví von rằng: “Tao dân Núi Nhạn, Sông Đà.” (2)    

Năm 1975, lịch sử sang trang, tưởng rằng: tôi sẽ được trở về với dòng sông cũ, bến đò xưa… Tôi sẽ đứng trên chiếc cầu dài nhất miền Trung, ngắm dòng sông quen thuộc, trông những cồn cát ven sông phủ lên màu xanh của soi dưa, ruộng mía… Xa bờ là xóm làng dân cư đông đúc và tưởng rằng tôi sẽ được sống với hình ảnh êm đềm nơi quê hương yêu dấu.

Nhưng than ôi! Tôi đã bị lưu đày nơi rừng sâu, núi thẳm… rồi biệt xứ ở vùng Thượng du rồi Trung du Bắc Việt gần bảy năm trường. Ngày được thả về, đời tôi coi như “tàn trong ngõ hẹp…”

Đời chỉ “tàn” chứ chưa “tan” trong ngõ hẹp! Nên giờ đây tôi còn có dịp viết những dòng tâm cảm gởi quí bạn đọc chơi.

Năm 1986, gia đình tôi được nguời em vợ bảo lãnh sang Canada, sau đó tôi xin qua Mỹ - định cư ở Virginia - tính đến nay đã hơn bốn mươi năm.

Trước khi rời Việt Nam đi Canada, tôi về quê thăm mẹ tôi, và ra nhìn con sông Đà lần cuối. Tôi có già đi, nhưng dòng sông vẫn thế - nó không già đi hay trẻ lại - nuớc vẫn lững lờ trôi… Không biết nó có buồn khi tôi xa nó? Nhưng lòng tôi cảm thấy ngậm ngùi!   


Ai cũng biết lý do tại sao, sau năm 1975, nhiều người Miền Nam bất chấp hiểm nguy, liều thân sống chết: vượt biên, vượt biển hay tìm mọi cách thoát ra nước ngoài, mặc dù trong lòng vẫn đau đáu với quê hương.    

Từ ngày được định cư ở Virginia, ngoài việc tìm sinh kế nuôi sống bản thân và gia đình, tôi thường tham gia sinh hoạt cộng đồng để tìm nguồn an ủi và hơi ấm đồng hương. Khi cuộc sống căng thẳng, tôi tìm thư giãn ở những nơi có cảnh đẹp sông, hồ… để chụp ảnh. Và tôi đã bắt gặp dòng sông Potomac.

Khi mới đến Virginia còn nhiều bỡ ngỡ,  một người bạn thân đã định cư ở đây từ năm 1975, “đãi” gia đình tôi một chuyến “du ngoạn” trên sông Potomac bằng du thuyền. Du thuyền Spirit khởi hành từ National Harbor (D.C.) ngược dòng sông Potomac đến ngọn đồi thoai thoải Mount Vernon, một khu trang trại rộng lớn, có ngôi nhà trắng, mái ngói đỏ nổi bật ở lưng đồi nhìn xuống dòng sông thơ mộng… hiện tại đã trở thành di tích lịch sử, nhưng trước đây là nhà ở của George Washington, vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ đã được lịch sử lưu danh là “Cha già dân tộc”.

Du thuyền rời bến khoảng nửa giờ, tôi ngây ngất với cảnh đẹp hai bên bờ sông - những cây hoa anh đào khoe sắc, in bóng lung linh trên dòng nước trong xanh… xa xa là những ngôi nhà cổ kính núp dưới bóng cây cổ thụ cho ta một cái nhìn thoáng đãng và không gian tươi mát. Quay nhìn phía sau là cây cầu vòm đá cổ kính, xa mờ là những tòa kiến trúc đầy kiêu hãnh như Đài tưởng niệm Washington (Tháp Bút Chì), Tòa nhà Quốc Hội...

Ôi! Chưa đầy ba trăm năm lập quốc mà Hoa Kỳ đã tạo được những  kỳ tích phi thường.

Khi đang say mê nhìn cảnh đẹp ven sông, bỗng trong đầu tôi thoáng qua ý nghĩ về lai lịch của dòng sông Potomac. Nó là một chứng nhân lịch sử - từng in dấu chân của những Tổ Phụ lập quốc Hoa Kỳ. Nước của dòng sông này đã từng hòa với máu của những anh hùng trong cuộc chiến giành độc lập từ đế quốc Anh để đất nước Hoa Kỳ có ngày Độc lập: July 4, 1776. Và nó cũng từng là lằn ranh sinh tử cuả những người lính Bắc- Nam trong cuộc nội chiến (1861- 1865).

Thế nhưng giờ đây, dòng sông Potomac hiền hòa ôm ấp mọi cư dân của đất nước, không phân biệt màu da hay chủng tộc. Nó trở thành biểu tượng của sự hòa hợp và là một phần linh hồn tổ quốc Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. 

Không phải mình tôi khám phá ra cái kỳ diệu của dòng sông Potomac mà còn có những người đồng cảm. Hãy nghe thi sĩ Phạm Cao Hoàng làm thơ:

khi dừng lại bên dòng Potomac
em bên tôi vẫn rất dịu dàng
gió lồng lộng cả một trời Đông Bắc
tóc em bay trong nắng thu vàng
 
và như thế mình đi và đã đến
mình đã tìm và gặp được dòng sông
tôi ngồi xuống để nghe sông hát
và đứng lên ôm lấy mặt trời hồng
 
và như thế mình đi và đã đến
đã bên nhau thủy tận sơn cùng
tôi nằm xuống để nghe đất thở
tạ ơn đời độ lượng bao dung
 
khi dừng lại bên dòng Potomac
tôi và em nhìn lại quê nhà
buồn hiu hắt thương về chốn cũ
phía chân trời đã mịt mù xa

Và đọc một vài đoạn trong bài thơ “Khi qua sông Potomac” của Nguyễn An Bình:

Chiếc cầu nổi hai bên bờ Potomac
Cây vẫn xanh màu lá vẫn dịu dàng
Tôi qua đó nghe dòng sông tự hát
Khúc tình ca gởi tặng kẻ lang thang

Em ngồi lại cùng tôi bên dòng Potomac
Để cùng nhau nghe sóng kể chuyện lòng
Ôi nước Mỹ đất mênh mông đến vậy
Sao nặng tình thao thức một dòng sông. 

Đấy, dòng sông Potomac đầy tình tự và nên thơ… Nếu bạn ở phương xa, có dịp đến thăm Vùng Hoa Thịnh Đốn (thường được hiểu bao gồm: Thủ đô Washington D.C. và hai Tiểu bang Maryland và Virginia) chớ bỏ qua một chuyến du thuyền trên sông Potomac.

Bạn cũng có thể ngắm cảnh đẹp dòng sông từ các bãi “đậu xe vọng cảnh” (outlook) dọc bên đường George Washington Memorial Parkway - một con đường đẹp nhất ở Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn - bắt đầu từ Beltway 495, exit 44 chạy đến Mount Vernon, nơi có ngôi nhà của Tổng Thống George Washington.

Vào mùa xuân khoảng đầu tháng Tư, hoa anh đào nở rộ - khoe sắc hồng khắp lối; vào cuối mùa thu lá vàng óng ả suốt dọc con đường.

Lái xe trên con đường này, bạn sẽ cảm thấy như mình đang lạc vào chốn thiên thai. Không là thi sĩ, bạn cũng có thể làm vài câu thơ…

Nếu bạn thích bộ môn nhiếp ảnh, hãy chọn bên này bờ sông Potomac, gần cầu Key làm nơi đặt máy - lấy dòng sông làm tiền cảnh, ống kính thu hình hướng về: cầu Key, lăng Tổng Thống Abraham Lincoln, xa hơn là chóp đài tưởng niệm Washington (Tháp bút chì). Thế là bạn sẽ có tấm hình ghi lại được 1/3 phong cảnh biểu tượng cho Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Nếu bạn đến vào dịp Lễ Độc Lập July 4, chớ quên ra bờ sông chờ chụp cảnh bắn pháo bông. Ôi! Từng chùm pháo hoa phản chiếu trên mặt sông… Bạn sẽ có tấm ảnh nghệ thuật chụp phong cảnh tuyệt vời. 

Tôi vừa viết mấy dòng chấm phá cảnh đẹp của dòng sông Potomac. Bây giờ xin nói thêm những điều kỳ diệu ven sông.

Chuyện hình thành và phát triển cộng đồng người Việt vùng Hoa Thịnh Đốn đã được nhà văn Nguyễn Minh Nữu viết khá chi tiết qua bài"Làm báo ở Washington, D.C." được phổ biến khá rộng rãi trên mạng.

Ở đây, tôi chỉ thêm vào cái tình người và sự đóng góp tài năng của cư dân nơi này đã làm “vẻ vang dân tộc Việt”.

Mặc dù dân số đông hàng thứ ba sau California và Texas - khoảng trên một trăm ngàn người - nhưng không thiếu “anh hào - tao nhân - mặc khách” đã được vinh danh như: khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, chính trị gia Hùng Cao; doanh nhân thành đạt chắc có nhiều, nhưng còn ẩn danh - “giả dạng thường dân”. Chỉ có triệu phú Lê Thiệp - chủ tiệm phở 75 lộ diện rõ ràng. Còn văn nhân, thi sĩ thì quá nhiều kể ra không xuể.

Đặc biệt, mới đây - ngày 25 tháng Tư năm 2025, Đại học George Mason ở VA, đã đặt tên hai người gốc Việt cho trường dạy Kỹ Thuật Điện Toán. Đó là vợ chồng ông bà Long Nguyễn và Kimmy Dương. Hai ông bà này đã tài trợ hai chục triệu đô la cho Đại học George Mason.   

Tình người ở đây ôn hòa, đằm thắm… ít có phe đảng chống đối nhau ra mặt như ở Cali. Tệ nạn xã hội có xảy ra nhưng không nhiều như các cộng đồng sắc dân khác. Việc học hành và thành đạt của con em người Việt ở đây đạt tỷ lệ khá cao. Trường  Đại học rất nhiều nhưng con em người Việt thường chọn các trường: George Mason University, University of Maryland, Howard University, Virginia Tech, Marymount Unversity, Johns Hopkins University, Georgetown University, George Washington University…

Đặc biệt, tôi không thấy có sự kỳ thị chủng tộc trong học đường. Đó là điều tôi an tâm và vui sống ở Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn suốt bốn mươi năm nay.

Bốn mươi năm được sống trong bình an, tự do và hạnh phúc, nhìn thấy tương lai con cháu rộng mở. Đó là ân huệ của cuộc đời.

Nhưng tôi không thể quên cội nguồn dân tộc. Tôi luôn ray rứt nghĩ về thân phận con người và vận nước nổi trôi.

Nếu như không có ngày 30.4.1975 oan nghiệt, chắc chắn tôi đã không có mặt nơi đây, tôi đã sống với quê hương yêu dấu, với truyền thống tốt đẹp và hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Nếu như ngày ấy, những người lãnh đạo guồng máy chính trị ở Việt Nam sáng suốt và có tấm lòng nhân đạo thì sẽ không có cảnh gần năm trăm ngàn người chết trên biển cả, trong rừng sâu trên đường vượt biên, vượt biển - tìm sự sống trong cái chết! Và cũng không có trên ba triệu người Việt lìa bỏ quê hương, sống lưu lạc khắp năm châu, trong đó có tôi.

Đôi khi tôi đọc những sử liệu viết về cách giải quyết chiến tranh và các vấn đề hậu chiến trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) giữa những người quân tử - chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng mang tính nhân văn, làm tôi ngưỡng mộ.

Chuyện rằng: “Khi tướng Robert Edward Lee, Tư lệnh Liên quân miền Nam quyết định đầu hàng, ông viết lá thư riêng gởi cho tướng Ulysses S. Grant, Tư lệnh Liên quân miền Bắc, yêu cầu thu xếp cuộc họp mặt. Tướng Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết cơn bệnh nhức đầu kinh niên đã hành hạ ông.

Trưa ngày 9 tháng 4 năm 1865, tướng Lee cùng một đại tá tùy viên cỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến điểm hẹn tại làng Appomattox Court House, Virginia. Hình ảnh ghi lại - tướng Lee đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón.

Vị Tư lệnh miền Bắc thắng trận đã ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được vô lễ với vị tướng Tư lệnh miền Nam bại trận. Và khi hay tin miền Nam đầu hàng, quân sĩ miền Bắc định bắn đại bác chào mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay và huấn thị: “Chiến tranh đã kết thúc, giờ đây họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không nên reo mừng trên nỗi đau khổ của họ. Hai bên không còn là kẻ thù.”

Khi đắc cử tổng thồng thứ 18 của Hoa Kỳ, tướng Grant tâm sự: “Lúc ấy, tôi rất ngại ngùng và hổ thẹn khi nói đến chữ đầu hàng với tướng Lee.” Câu chuyện được kể tiếp: Khi tướng Grant ngại ngùng mở lời thì tướng Lee hối thúc. Tướng Grant lấy bút viết các điều thỏa ước: “Quân lính miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng; không bị coi là phản quốc và được trở về nguyên quán sinh sống như ngưòi dân bình thường.”

Tướng Grant trao cho tướng Lee xem điều thỏa ước. Mặt tướng Lee tươi hẳn lên và phát biểu: “ Như vậy là tốt cho mọi người, nhưng thêm hai yêu cầu: Cho phép binh lính miền Nam mang lừa, ngựa về để sử dụng trong nông trại vì đây là tài sản riêng của họ đã mang theo khi gia nhập quân đội và xin cung cấp lương thực cho hơn một ngàn tù binh miền Bắc tôi đang giam giữ và các binh sĩ của tôi cũng đang đói.”

Tướng Grant đồng ý ngay và ra lịnh xuất 25 ngàn khẩu phần ăn. Tướng Grant hỏi: “Như vậy đủ chưa?” Tướng Lee trả lời: “Thưa Đại tướng, như thế là quá đủ.”

Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp. Bên ngoài các sĩ quan, binh sĩ miền Bắc đứng nghiêm đưa tay chào kính cẩn.

Sau này,  khi nói đến cuộc nội chiến Hoa Kỳ và bản thỏa ước chấm dứt chiến tranh người ta thường bảo: “Văn bản đầu hàng là một thỏa hiệp của những người quân tử - The Gentlement’s Agreement”

Đây là niềm hãnh diện cho con dân Hoa Kỳ mỗi khi nhắc nhớ đến cách hành xử của cha ông họ trong cuộc nội chiến và là bài học cho hậu thế cách làm người văn minh, quân tử.

Thêm một tấm gương của người quân tử - Thống tướng Douglas MacArthur của Hoa Kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh tối cao của lực lượng Đồng minh (SCAP) (3) và trở thành người có quyền lực cao nhất tại Nhật lúc bấy giờ. Với tinh thần thượng võ, MacAthur đã cho binh sĩ các cấp của Nhật Bản về với gia đình - không bị tù tội. Nhật Hoàng Hirohito cũng được miễn tội và thường xuyên được trao đổi ý kiến. Đồng thời ông thúc đẩy Hoa Kỳ cứu đói cho dân Nhật. Douglas MacArthur được người Nhật ghi ơn. Khi MacArthur về lại nước Mỹ, dân Nhật đã xếp hàng tiễn đưa ông lên máy bay với dòng lệ kính yêu. Ông được coi như một trong 12 người có công xây dựng nước Nhật phú cường như ngày nay.     

Bây giờ nhìn lại cách hành xử của người cộng sản Việt Nam khi chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn và giải quyết các vấn đề hậu chiến sau khi chiếm được Miền Nam - viết ra quá dài dòng và thêm xấu hổ cho dân tộc tôi, vì có một lớp người thiển cận, độc ác, tham lam, hẹp hòi - không còn nhân tính đã xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử đen tối của đất nước.

Không biết những thế hệ sau này nghĩ sao khi đọc lại những trang sử Việt Nam trong thời kỳ này?

Với tôi, đây là trang sử ô nhục nhất trong mọi thời đại. 

Viết đến đây tôi thấy bùi ngùi cho số phận. Với tuổi đời: “Tương lai ngồi đợi hoàng hôn xuống…”(4)  Tôi biết khó lòng gởi nắm xương tàn bên mồ mả cha ông khi về cõi… Nên tôi căn dặn mấy đứa con: Chớ bận tâm đưa hài cốt của cha về với  nghĩa trang gia tộc. Hãy hỏa thiêu và rải tro cốt của cha trên dòng sông Potomac. Hồn của cha sẽ lờ lững trôi theo “dòng sông định mệnh” này.

LÊ ĐỨC LUẬN
(Tháng 6.2025)

(1) Soi là bãi cát ven sông, người ta trồng dưa hấu, mướp, bí ngô.
(2) Núi Nhạn Tháp và sông Đà Rằng là biểu tượng cho thành phố Tuy Hòa.
(3) SCAP = Supreme Commander for the Allied Powers.
(4) Thơ Tú Kếu.