Sinh năm 1944 tại Tuy Hòa, Phú Yên.
Tốt nghiệp Khóa 1, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Cử nhân Chính trị học,
Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Trước năm 1975: sĩ quan phục vụ trong ngành CTCT/
QLVNCH. Đơn vị sau cùng: Ủy Ban Binh Thư thuộc Tổng Cục/ CTCT. Sau 1975, ở tù 7
năm. Sang Mỹ định cư tại Virginia vào năm 1986. Nhận giải danh dự Viết Về Nước
Mỹ của Việt Báo năm 2023. Đã xuất bản: NGƯỜI MẸ TÌM CON (Truyện ký,
2022).
DÒNG SÔNG ĐỊNH MỆNH
Dòng
sông! Nó hiện hữu trong thiên nhiên từ khi khai thiên lập địa như muôn thứ đã
có trên quả đất này - tự nó ngàn đời không thay đổi - gom nước từ đầu nguồn rồi
khơi dòng chảy ra biển cả. Con người đặt cho nó cái tên là Dòng Sông.
Khi thêm
vài chữ kèm theo với dòng sông như: dòng sông êm đềm, thơ mộng hay là dòng sông
oan nghiệt, ô nhục… Các thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ dựa vào đó mà “thổi
vào” dòng sông “cái linh hồn” và làm ra những tác phẩm rung động lòng người.
Nhưng có
một chữ đi kèm với dòng sông - chữ “định mệnh”- đã biến dòng sông thành chỗ
riêng tư. Dòng Sông định mệnh chính nó đã ấp ủ và nuôi dưỡng con người hay một
cơ duyên nào đó đưa đẩy con người đến với nó. “Dòng sông định mệnh”- nơi con
người đã từng gắn bó với nó và cho họ những cảm xúc dạt dào. Và chính những con
người đó mới nói lên hay tạo được tác phẩm tuyệt vời.
Các văn
nhân, thi sĩ khó lòng nói thay hay chế tác hư cấu.
Trong
đời, ai cũng có những kỷ niệm về một dòng sông. Có những dòng sông lưu trong ký
ức, nhưng rất ít được gọi là “dòng sông định mệnh”.
Với tôi,
có ba dòng sông lưu trong ký ức và hai dòng sông tôi đã sống chết với nó do
định mệnh an bài. Tôi gọi đó là “dòng sông định mệnh”.
Khi
thầy, cô giáo dạy tôi tập đọc và học thuộc lòng những bài văn của các nhà văn
Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân miêu tả dòng sông Hương ở Huế - êm đềm, thơ mộng - dòng
nước trong veo, phẳng lặng như tờ… Hỉnh ành đó đã đi vào ký ức của tôi từ thuở
đầu đời.
Khi lên
Trung học, học sinh phải học hai ngoại ngữ: Pháp văn và Anh văn. Sách giáo khoa
thời bấy giờ có Cours de Langues (gồm 4 quyển) cho Pháp văn; English For
Today (gồm 4 quyển) cho Anh văn. Nhờ mấy quyển sách này mà tôi biết dòng sông
Seine chảy qua thành phố Paris nước Pháp và dòng sông Potomac ôm ấp thủ đô
Washington D.C. của Mỹ. Thời đó, nhìn trên bản đồ, thấy hai dòng sông này cách
xa vạn dặm, tôi như đứa trẻ nhìn trăng, thấy chú Cuội ngồi dưới gốc cây đa và
không nghĩ có một ngày mình sẽ đặt chân đến những nơi này.
Nhưng
hai dòng sông đó đã đi vào ký ức, vì tôi cảm nhận cái nên thơ và lãng mạn của
nó qua các bài văn. Mấy mươi năm sau, không ngờ, có một dòng sông đã trở thành
“Dòng Sông Định Mệnh” của đời tôi. Đó là dòng sông Potomac.
Còn một
dòng sông đã đi vào ký ức, khi tôi có ý thức về chính trị. Đó là dòng sông Bến
Hải - một dòng sông hiền hòa bỗng trở thành “dòng sông oan nghiệt” - nó chia
đôi đất nước tôi và lịch sử Việt Nam ghi thêm một trang ô nhục - khiến tôi ngậm
ngùi!
Đã nói
về ba dòng sông đã đi vào ký ức. Bây giờ, tôi kể chuyện hai dòng sông định
mệnh: Dòng sông Đà Rằng ở quê tôi và dòng sông Potomac trên đất khách.
Không
biết tự bao giờ, khi tôi được sinh ra đời đã có con sông Đà Rằng. Dân quê ở
thượng nguồn gọi nó là con sông Ba, ở hạ lưu người ta gọi là sông Đà Rằng và
sách địa lý cũng ghi như thế.
Tôi gắn
bó với dòng sông Đà Rằng trên hai mươi năm và có “một trời” kỷ niệm…
Kể sao
cho hết cái thích thú của những lần tắm sông cùng lũ nhóc trong làng vào những
buổi trưa hè… Mùa hè nước cạn, trong veo… phơi ra bờ cát mịn. Lũ trẻ chúng tôi
tha hồ bơi lội, có lúc ra giữa lòng sông. Khi nắng lên cao, lũ trẻ men theo bờ
cát vào soi (1) nhổ những cây rau đắng mọc dại ven bờ về cho mẹ phơi khô để nấu
chè rau đắng - hương vị nồi chè rau đắng rất đặc biệt - chỉ quê tôi mới có. Khi
nào có dịp ghé quê tôi, tôi sẽ mời bạn thưởng thức chén chè rau đắng.
Đó là
chuyện hiền hòa, dễ thương của dòng sông Đà Rằng vào mùa hạ.
Nhưng
sang mùa đông nó “cuồng nộ” đến phát sợ - nước đục ngầu từ nguồn đổ về cuồn
cuộn, chảy xiết… cuốn trôi mọi thứ ven bờ. Nhưng sau cơn “cuồng nộ”, dòng sông
phủ lên những cánh đồng đất mịn phù sa mầu mỡ, giúp cho dân làng có một vụ mùa
bội thu năm tới.
Còn tôi
có cái thú vui vào mùa bão lũ là theo cha đặt lờ bắt cá. Các loại cá như cá rô,
cá trắng, cá tràu (cá lóc) ngược dòng nước lênh láng khắp cánh đồng tìm nơi đẻ
trứng. Chúng nó dại khờ chui vào những cái lờ bóng bẩy mà cha tôi đặt chỗ nước
chảy. Ca dao có câu: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt/ Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn
vô”. Tôi không biết diễn tả làm sao cho hết cái “khoái” khi đi “giở lờ” (nhấc
cái lờ khỏi mặt nước) - năm bảy con cá rô đỏ hoe con mắt - rùng rùng trong lờ!
Cha tôi cười, còn tôi reo lên khoái chí, mở nắp giỏ cho cha đổ cá vào.
Tôi
sống, tôi vui với dòng sông Đà Rằng trong thời niên thiếu. Năm hai mươi tuổi,
tôi xa nó để vào Sài Gòn tiếp tục việc học hành, rồi lên Đà Lạt gia nhập quân
đội Việt Nam Cộng Hòa.
Từ đó,
đời tôi nổi trôi theo vận nước với bao gian truân và nghiệt ngã - mười năm
lính, bảy năm tù cải tạo làm hao gầy trí lực. Dòng sông Đà Rằng chỉ còn trong
hoài niệm. Nhưng khi ai hỏi: “Mi ở xứ mô?” - tôi ví von rằng: “Tao dân Núi
Nhạn, Sông Đà.” (2)
Năm
1975, lịch sử sang trang, tưởng rằng: tôi sẽ được trở về với dòng sông cũ, bến
đò xưa… Tôi sẽ đứng trên chiếc cầu dài nhất miền Trung, ngắm dòng sông quen
thuộc, trông những cồn cát ven sông phủ lên màu xanh của soi dưa, ruộng mía… Xa
bờ là xóm làng dân cư đông đúc và tưởng rằng tôi sẽ được sống với hình ảnh êm
đềm nơi quê hương yêu dấu.
Nhưng
than ôi! Tôi đã bị lưu đày nơi rừng sâu, núi thẳm… rồi biệt xứ ở vùng Thượng du
rồi Trung du Bắc Việt gần bảy năm trường. Ngày được thả về, đời tôi coi như
“tàn trong ngõ hẹp…”
Đời chỉ
“tàn” chứ chưa “tan” trong ngõ hẹp! Nên giờ đây tôi còn có dịp viết những dòng
tâm cảm gởi quí bạn đọc chơi.
Năm
1986, gia đình tôi được nguời em vợ bảo lãnh sang Canada, sau đó tôi xin qua Mỹ
- định cư ở Virginia - tính đến nay đã hơn bốn mươi năm.
Trước
khi rời Việt Nam đi Canada, tôi về quê thăm mẹ tôi, và ra nhìn con sông Đà lần
cuối. Tôi có già đi, nhưng dòng sông vẫn thế - nó không già đi hay trẻ lại -
nuớc vẫn lững lờ trôi… Không biết nó có buồn khi tôi xa nó? Nhưng lòng tôi cảm
thấy ngậm ngùi!
Ai cũng
biết lý do tại sao, sau năm 1975, nhiều người Miền Nam bất chấp hiểm nguy, liều
thân sống chết: vượt biên, vượt biển hay tìm mọi cách thoát ra nước ngoài, mặc
dù trong lòng vẫn đau đáu với quê hương.
Từ ngày
được định cư ở Virginia, ngoài việc tìm sinh kế nuôi sống bản thân và gia đình,
tôi thường tham gia sinh hoạt cộng đồng để tìm nguồn an ủi và hơi ấm đồng
hương. Khi cuộc sống căng thẳng, tôi tìm thư giãn ở những nơi có cảnh đẹp sông,
hồ… để chụp ảnh. Và tôi đã bắt gặp dòng sông Potomac.
Khi mới
đến Virginia còn nhiều bỡ ngỡ, một người bạn thân đã định cư ở đây từ năm
1975, “đãi” gia đình tôi một chuyến “du ngoạn” trên sông Potomac bằng du
thuyền. Du thuyền Spirit khởi hành từ National Harbor (D.C.) ngược dòng sông
Potomac đến ngọn đồi thoai thoải Mount Vernon, một khu trang trại rộng lớn, có
ngôi nhà trắng, mái ngói đỏ nổi bật ở lưng đồi nhìn xuống dòng sông thơ mộng…
hiện tại đã trở thành di tích lịch sử, nhưng trước đây là nhà ở của George
Washington, vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ đã được lịch sử lưu danh là “Cha
già dân tộc”.
Du
thuyền rời bến khoảng nửa giờ, tôi ngây ngất với cảnh đẹp hai bên bờ sông -
những cây hoa anh đào khoe sắc, in bóng lung linh trên dòng nước trong xanh… xa
xa là những ngôi nhà cổ kính núp dưới bóng cây cổ thụ cho ta một cái nhìn
thoáng đãng và không gian tươi mát. Quay nhìn phía sau là cây cầu vòm đá cổ
kính, xa mờ là những tòa kiến trúc đầy kiêu hãnh như Đài tưởng niệm Washington
(Tháp Bút Chì), Tòa nhà Quốc Hội...
Ôi! Chưa
đầy ba trăm năm lập quốc mà Hoa Kỳ đã tạo được những kỳ tích phi thường.
Khi đang
say mê nhìn cảnh đẹp ven sông, bỗng trong đầu tôi thoáng qua ý nghĩ về lai lịch
của dòng sông Potomac. Nó là một chứng nhân lịch sử - từng in dấu chân của
những Tổ Phụ lập quốc Hoa Kỳ. Nước của dòng sông này đã từng hòa với máu của
những anh hùng trong cuộc chiến giành độc lập từ đế quốc Anh để đất nước Hoa Kỳ
có ngày Độc lập: July 4, 1776. Và nó cũng từng là lằn ranh sinh tử cuả những
người lính Bắc- Nam trong cuộc nội chiến (1861- 1865).
Thế
nhưng giờ đây, dòng sông Potomac hiền hòa ôm ấp mọi cư dân của đất nước, không
phân biệt màu da hay chủng tộc. Nó trở thành biểu tượng của sự hòa hợp và là
một phần linh hồn tổ quốc Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.
Không
phải mình tôi khám phá ra cái kỳ diệu của dòng sông Potomac mà còn có những
người đồng cảm. Hãy nghe thi sĩ Phạm Cao Hoàng làm thơ:
Và đọc
một vài đoạn trong bài thơ “Khi qua sông Potomac” của Nguyễn An Bình:
Đấy,
dòng sông Potomac đầy tình tự và nên thơ… Nếu bạn ở phương xa, có dịp đến thăm
Vùng Hoa Thịnh Đốn (thường được hiểu bao gồm: Thủ đô Washington D.C. và hai
Tiểu bang Maryland và Virginia) chớ bỏ qua một chuyến du thuyền trên sông
Potomac.
Bạn cũng
có thể ngắm cảnh đẹp dòng sông từ các bãi “đậu xe vọng cảnh” (outlook) dọc bên
đường George Washington Memorial Parkway - một con đường đẹp nhất ở Vùng Thủ đô
Hoa Thịnh Đốn - bắt đầu từ Beltway 495, exit 44 chạy đến Mount Vernon, nơi có
ngôi nhà của Tổng Thống George Washington.
Vào mùa
xuân khoảng đầu tháng Tư, hoa anh đào nở rộ - khoe sắc hồng khắp lối; vào cuối
mùa thu lá vàng óng ả suốt dọc con đường.
Lái xe
trên con đường này, bạn sẽ cảm thấy như mình đang lạc vào chốn thiên thai.
Không là thi sĩ, bạn cũng có thể làm vài câu thơ…
Nếu bạn
thích bộ môn nhiếp ảnh, hãy chọn bên này bờ sông Potomac, gần cầu Key làm nơi
đặt máy - lấy dòng sông làm tiền cảnh, ống kính thu hình hướng về: cầu Key,
lăng Tổng Thống Abraham Lincoln, xa hơn là chóp đài tưởng niệm Washington (Tháp
bút chì). Thế là bạn sẽ có tấm hình ghi lại được 1/3 phong cảnh biểu tượng cho
Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Nếu bạn đến vào dịp Lễ Độc Lập July 4, chớ quên ra bờ
sông chờ chụp cảnh bắn pháo bông. Ôi! Từng chùm pháo hoa phản chiếu trên mặt
sông… Bạn sẽ có tấm ảnh nghệ thuật chụp phong cảnh tuyệt vời.
Tôi vừa
viết mấy dòng chấm phá cảnh đẹp của dòng sông Potomac. Bây giờ xin nói thêm
những điều kỳ diệu ven sông.
Chuyện
hình thành và phát triển cộng đồng người Việt vùng Hoa Thịnh Đốn đã được nhà
văn Nguyễn Minh Nữu viết khá chi tiết qua bài"Làm báo ở Washington,
D.C." được phổ biến khá rộng rãi trên mạng.
Ở đây,
tôi chỉ thêm vào cái tình người và sự đóng góp tài năng của cư dân nơi này đã
làm “vẻ vang dân tộc Việt”.
Mặc dù
dân số đông hàng thứ ba sau California và Texas - khoảng trên một trăm ngàn
người - nhưng không thiếu “anh hào - tao nhân - mặc khách” đã được vinh danh
như: khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, chính trị gia Hùng Cao; doanh nhân thành
đạt chắc có nhiều, nhưng còn ẩn danh - “giả dạng thường dân”. Chỉ có triệu phú
Lê Thiệp - chủ tiệm phở 75 lộ diện rõ ràng. Còn văn nhân, thi sĩ thì quá nhiều
kể ra không xuể.
Đặc
biệt, mới đây - ngày 25 tháng Tư năm 2025, Đại học George Mason ở VA, đã đặt
tên hai người gốc Việt cho trường dạy Kỹ Thuật Điện Toán. Đó là vợ chồng ông bà
Long Nguyễn và Kimmy Dương. Hai ông bà này đã tài trợ hai chục triệu đô la cho
Đại học George Mason.
Tình
người ở đây ôn hòa, đằm thắm… ít có phe đảng chống đối nhau ra mặt như ở Cali.
Tệ nạn xã hội có xảy ra nhưng không nhiều như các cộng đồng sắc dân khác. Việc
học hành và thành đạt của con em người Việt ở đây đạt tỷ lệ khá cao.
Trường Đại học rất nhiều nhưng con em người Việt thường chọn các trường:
George Mason University, University of Maryland, Howard University, Virginia
Tech, Marymount Unversity, Johns Hopkins University, Georgetown University,
George Washington University…
Đặc
biệt, tôi không thấy có sự kỳ thị chủng tộc trong học đường. Đó là điều tôi an
tâm và vui sống ở Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn suốt bốn mươi năm nay.
Bốn mươi
năm được sống trong bình an, tự do và hạnh phúc, nhìn thấy tương lai con cháu
rộng mở. Đó là ân huệ của cuộc đời.
Nhưng
tôi không thể quên cội nguồn dân tộc. Tôi luôn ray rứt nghĩ về thân phận con
người và vận nước nổi trôi.
Nếu như
không có ngày 30.4.1975 oan nghiệt, chắc chắn tôi đã không có mặt nơi đây, tôi
đã sống với quê hương yêu dấu, với truyền thống tốt đẹp và hào hùng của dân tộc
Việt Nam.
Nếu như
ngày ấy, những người lãnh đạo guồng máy chính trị ở Việt Nam sáng suốt và có
tấm lòng nhân đạo thì sẽ không có cảnh gần năm trăm ngàn người chết trên biển
cả, trong rừng sâu trên đường vượt biên, vượt biển - tìm sự sống trong cái
chết! Và cũng không có trên ba triệu người Việt lìa bỏ quê hương, sống lưu lạc
khắp năm châu, trong đó có tôi.
Đôi khi
tôi đọc những sử liệu viết về cách giải quyết chiến tranh và các vấn đề hậu
chiến trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) giữa những người quân tử - chỉ
vài chi tiết nhỏ nhưng mang tính nhân văn, làm tôi ngưỡng mộ.
Chuyện
rằng: “Khi tướng Robert Edward Lee, Tư lệnh Liên quân miền Nam quyết định đầu
hàng, ông viết lá thư riêng gởi cho tướng Ulysses S. Grant, Tư lệnh Liên quân
miền Bắc, yêu cầu thu xếp cuộc họp mặt. Tướng Grant nhận được thư hết sức vui
mừng và bỗng nhiên thấy hết cơn bệnh nhức đầu kinh niên đã hành hạ ông.
Trưa
ngày 9 tháng 4 năm 1865, tướng Lee cùng một đại tá tùy viên cỡi ngựa vượt qua
phòng tuyến đến điểm hẹn tại làng Appomattox Court House, Virginia. Hình ảnh
ghi lại - tướng Lee đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón.
Vị Tư
lệnh miền Bắc thắng trận đã ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực
thuộc không được vô lễ với vị tướng Tư lệnh miền Nam bại trận. Và khi hay tin
miền Nam đầu hàng, quân sĩ miền Bắc định bắn đại bác chào mừng. Tướng Grant ra
lệnh ngưng ngay và huấn thị: “Chiến tranh đã kết thúc, giờ đây họ là đồng bào
của chúng ta, chúng ta không nên reo mừng trên nỗi đau khổ của họ. Hai bên
không còn là kẻ thù.”
Khi đắc
cử tổng thồng thứ 18 của Hoa Kỳ, tướng Grant tâm sự: “Lúc ấy, tôi rất ngại
ngùng và hổ thẹn khi nói đến chữ đầu hàng với tướng Lee.” Câu chuyện được kể
tiếp: Khi tướng Grant ngại ngùng mở lời thì tướng Lee hối thúc. Tướng Grant lấy
bút viết các điều thỏa ước: “Quân lính miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí
giới và quân dụng; không bị coi là phản quốc và được trở về nguyên quán sinh
sống như ngưòi dân bình thường.”
Tướng
Grant trao cho tướng Lee xem điều thỏa ước. Mặt tướng Lee tươi hẳn lên và phát
biểu: “ Như vậy là tốt cho mọi người, nhưng thêm hai yêu cầu: Cho phép binh
lính miền Nam mang lừa, ngựa về để sử dụng trong nông trại vì đây là tài sản
riêng của họ đã mang theo khi gia nhập quân đội và xin cung cấp lương thực cho
hơn một ngàn tù binh miền Bắc tôi đang giam giữ và các binh sĩ của tôi cũng
đang đói.”
Tướng
Grant đồng ý ngay và ra lịnh xuất 25 ngàn khẩu phần ăn. Tướng Grant hỏi: “Như
vậy đủ chưa?” Tướng Lee trả lời: “Thưa Đại tướng, như thế là quá đủ.”
Nói xong
tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng
họp. Bên ngoài các sĩ quan, binh sĩ miền Bắc đứng nghiêm đưa tay chào kính cẩn.
Sau
này, khi nói đến cuộc nội chiến Hoa Kỳ và bản thỏa ước chấm dứt chiến
tranh người ta thường bảo: “Văn bản đầu hàng là một thỏa hiệp của những người
quân tử - The Gentlement’s Agreement”
Đây là
niềm hãnh diện cho con dân Hoa Kỳ mỗi khi nhắc nhớ đến cách hành xử của cha ông
họ trong cuộc nội chiến và là bài học cho hậu thế cách làm người văn minh, quân
tử.
Thêm một
tấm gương của người quân tử - Thống tướng Douglas MacArthur của Hoa Kỳ. Sau khi
Nhật đầu hàng Đồng Minh, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh tối cao của lực lượng
Đồng minh (SCAP) (3) và trở thành người có quyền lực cao nhất tại Nhật lúc bấy
giờ. Với tinh thần thượng võ, MacAthur đã cho binh sĩ các cấp của Nhật Bản về
với gia đình - không bị tù tội. Nhật Hoàng Hirohito cũng được miễn tội và
thường xuyên được trao đổi ý kiến. Đồng thời ông thúc đẩy Hoa Kỳ cứu đói cho
dân Nhật. Douglas MacArthur được người Nhật ghi ơn. Khi MacArthur về lại nước
Mỹ, dân Nhật đã xếp hàng tiễn đưa ông lên máy bay với dòng lệ kính yêu. Ông
được coi như một trong 12 người có công xây dựng nước Nhật phú cường như ngày
nay.
Bây giờ
nhìn lại cách hành xử của người cộng sản Việt Nam khi chấm dứt cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn và giải quyết các vấn đề hậu chiến sau khi chiếm được Miền
Nam - viết ra quá dài dòng và thêm xấu hổ cho dân tộc tôi, vì có một lớp người
thiển cận, độc ác, tham lam, hẹp hòi - không còn nhân tính đã xuất hiện trong
một giai đoạn lịch sử đen tối của đất nước.
Không
biết những thế hệ sau này nghĩ sao khi đọc lại những trang sử Việt Nam trong
thời kỳ này?
Với tôi,
đây là trang sử ô nhục nhất trong mọi thời đại.
Viết đến
đây tôi thấy bùi ngùi cho số phận. Với tuổi đời: “Tương lai ngồi đợi hoàng hôn
xuống…”(4) Tôi biết khó lòng gởi nắm xương tàn bên mồ mả cha ông khi về
cõi… Nên tôi căn dặn mấy đứa con: Chớ bận tâm đưa hài cốt của cha về với
nghĩa trang gia tộc. Hãy hỏa thiêu và rải tro cốt của cha trên dòng sông
Potomac. Hồn của cha sẽ lờ lững trôi theo “dòng sông định mệnh” này.