Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

538. TRẦN DOÃN NHO - ĐỌC TẬP SÁCH " VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC"


Đánh dấu 50 năm người Việt xa xứ (1975-2025), nhà xuất bản - và cũng là tạp chí mạng - Văn Phong vừa cho xuất bản một bộ sách có tựa đề “Viết Bên Dòng Potomac”, nhằm giới thiệu những khuôn mặt văn nghệ người Việt đã từng sống hoặc đang sống và viết bên dòng Potomac. Potomac là con sông dài 665 km chảy ngang qua thủ đô Washington và hai tiểu bang Virginia và Maryland của Hoa Kỳ, nơi có sự hiện diện của một cộng đồng người Việt khá lớn. “Đây không phải là một tuyển tập. Chỉ là một tập hợp những khuôn mặt văn nghệ người việt đã từng sống hoặc đang sống và viết bên dòng sông Potomac,” theo nhà văn Nguyễn Minh Nữu, người chủ trương và phụ trách thực hiện, cho biết trong “Thay lời Tựa”.

Bộ sách in ấn rất công phu, trình bày mỹ thuật và trang nhã, gồm hai tập, tập 1, 400 trang và tập 2, 408 trang, với sự có mặt của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà phê bình văn học, sử gia, nhà hoạt động cộng đồng, chính trị gia, họa sĩ, nhà báo, khoa học gia, nhạc sĩ, qua nhiều tác phẩm đủ thể loại: thơ, truyện ngắn, bút ký, hồi ký, tự truyện, dịch thuật, biên khảo & nhận định (văn học nghệ thuật, văn hóa, xã hội, chính trị, sử), phỏng vấn và nhạc. Lướt qua danh sách 86 tác giả trong bộ sách, ta nhận thấy sự có mặt của những cây bút đã thành danh từ thời Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975) như Đinh Cường, Uyên Thao, Đinh Từ Thức, Hoài Ziang Duy, Hoàng Xuân Sơn, Khê Kinh Kha, Nguyễn Xuân Hoàng, Vi Khuê, Trần Hoài Thư, Hoàng Hải Thủy, Ngô Vương Toại, Nguyễn Minh Nữu, Viên Linh, Uyên Thao, Phạm Cao Hoàng, Vương Đức Lệ, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Xuân Thiệp, Nguyễn Tường Giang, Vũ Hối…và những cây bút thành danh ở hải ngoại sau năm 1975 như Trương Vũ, Hồ Đình Nghiêm, Đinh Hùng Cường, Đinh Trường Chinh, Đinh Từ Bích Thúy, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Phạm Thành Châu, Phan Tấn Hải, Phùng Nguyễn, Sơn Tùng, Vũ Thất, Vĩnh Điện, Trần Thị Nguyệt Mai, Nguyễn Thụy Đan…

Ngoài các bài viết, còn có nhạc phẩm của các nhạc sĩ Kê Kinh Kha, Trần Đại Bản, Vĩnh Điện, Trần Uyên Thi, Ngô Minh Trí, Nguyễn Quyết Thắng. Đặc biệt, nhạc phẩm nào cũng có cài mã QR (Quick Response code), người đọc có thể trực tiếp truy cập để nghe nhạc trên điện thoại thông minh. Về hội họa, tuy không có phần dành riêng, nhưng bộ sách có khá nhiều tranh (phụ bản hay minh họa) - hầu hết đều được in nhiều màu - của các họa sĩ Ngọc Dũng, Đinh Cường, Nguyễn Trọng Khôi, Trương Vũ, Võ Đình, Quốc Vũ, Tạ Tỵ, Đinh Trường Chinh. Ngoài ra, có một bài viết về tranh Trương Vũ của Đỗ Thanh Tùng. 

Tôi ghi nhận một số chi tiết đáng nhớ của một vài tác giả. Đó là Uyên Thao, một cây bút nổi tiếng của Văn Học Miền Nam, hiện đã 92 tuổi, tuy đến định cư ở Mỹ khá muộn màng (1999), nhưng với lòng đam mê văn chương nghệ thuật, ông đứng ra thành lập nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, tính cho đến nay, đã xuất bản trên 80 tác phẩm đủ loại của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Đó là sự có mặt của hai người con của nhà văn Thạch Lam, một là Nguyễn Tường Nhung, con đầu, vợ của cố trung tướng Ngô Quang Trưởng và  hai là Nguyễn Tường Giang, con út. Đó là Trương Vũ, vừa là khoa học gia, vừa là nhà văn, vừa là dịch giả, vừa là chủ biên của một tuyển tập văn chương và hai tạp chí văn hóa nghệ thuật, đồng thời cũng là một mạnh thường quân, người đã đứng ra bảo trợ nhiều sự kiện văn chương lớn, nhỏ ở vùng Hoa Thịnh Đốn. Đó là Lê Thị Ý, tác giả của bài thơ “Thương Ca 1”, đã được Phạm Duy phổ nhạc với tựa đề “Tưởng Như Còn Người Yêu”, trong đó hai câu đầu “Ngày mai đi nhận xác chồng/Say đi để thấy mình không là mình” để lại một dấu ấn khó phai trong lòng người dân miền Nam thời chinh chiến. Còn nhiều, nhưng do giới hạn của một bài viết, tôi không thể nêu lên hết.

Về bài vở, nhìn chung, có thể nói phần sáng tác chiếm ưu thế, trong đó, truyện ngắn tương đối ít, hầu hết là thơ của gần 40 tác giả gồm khoảng trên dưới 90 bài, phong phú cả về đề tài lẫn thể loại. Kế đó là phần bút ký, hồi ký và tự truyện; trong phần này, hồi ký của hai tác giả nữ gây khá nhiều ấn tượng đối với tôi. Một là, “Câu Chuyện Của Người Vợ Tù” của Trần Thị Thanh Minh, kể lại một câu chuyện thuộc loại vô tiền khoáng hậu: lần đầu tiên đi thăm nuôi chồng ở tù ngoài Bắc, chưa gặp được chồng thì nhận được tin chồng chết khi đi lao dịch trong rừng sâu; và hai là, “Đổi Kiếp” của Hồng Thủy ghi lại giờ phút cuối cùng ở ngoài biển khơi khi các quân nhân Hải quân VNCH làm lễ chào quốc kỳ trên một chiến hạm trước khi rời tàu, chuyển giao lại cho Hải quân Mỹ. Phần biên khảo tương đối ít, nhưng khá “nặng ký”, trong đó, có bài bàn về văn học miền Nam (Phùng Nguyễn), có bài viết về lịch sử của tòa Bạch Ốc (Đinh Từ Thức) và có bài nghiên cứu về nhiếp ảnh gia Eddie Adams (Đinh Từ Bích Thúy), nổi tiếng với tấm hình chụp tướng Nguyễn Ngọc Loan xử tử một du kích cộng sản ở Sài Gòn năm 1968 đã khiến Adams hối hận sau này.



Họp mặt văn nghệ sĩ tại nhà Trương Vũ

(Washington D.C, 10/2015)

Hàng đứng (từ trái): Trương văn Dân và bà xã Elena Pucillo, Nguyễn Thị Thanh Bình, Phùng Nguyễn, Nguyễn Đình Vinh, Trần Doãn Nho, Bạch Mai, Nguyễn Minh Nữu, Nguyễn Quang, Trương Vũ, chị Trương Vũ, chị Nguyễn Minh Nữu, chị Phạm Cao Hoàng, chị Trần Doãn Nho, Phạm Cao Hoàng, chị Lữ Quỳnh.

Hàng ngồi (từ trái): Đoàn Văn Khánh, Nguyên Minh, Đinh Cường, Phạm Nhuận, Nguyễn Tường Giang, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh

(Hình: Phạm Cao Hoàng)

           Về nội dung, dù dưới dạng sáng tác, biên khảo hay thể loại khác, các bài viết trong bộ sách xoay quanh mấy chủ đề chính:      

          Mỗi người một vẻ, “Viết bên dòng Potomac” đã phản ảnh một cách sinh động mọi mặt sinh hoạt của cộng đồng người Việt vùng Washington-Virginia-Maryland trong 50 năm qua.

* 

Bỏ công bỏ sức đứng ra thực hiện bộ “Viết Bên Dòng Potomac 1975-2025” là hai khuôn mặt rất quen thuộc của văn giới thủ đô Washington, mà cũng là của văn học hải ngoại: nhà thơ Phạm Cao Hoàng và nhà văn Nguyễn Minh Nữu.

 

·         Phạm Cao Hoàng: Anh là nhà thơ thành danh từ trước 1975 ở trong nước và tiếp tục sáng tác khi định cư ở Mỹ từ năm 1999. Anh đã xuất bản một số tác phẩm: Đời Như Một Khúc Nhạc Buồn (Thơ), Tạ Ơn Những Giọt Sương (Thơ), Mây Khói Quê Nhà (thơ),  Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt (Truyện và tạp bút), Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương (Thơ). Ngoài ra, anh còn thành lập “Blog Phạm Cao Hoàng” (4/2012), sau chuyển thành trang “Trang Văn Học Nghệ Thuật Phạm Cao Hoàng”; trang mạng này kéo dài đến cuối năm 2024, đã giới thiệu và lưu trữ 6650 tác phẩm đủ loại của Phạm Cao Hoàng và bằng hữu. Tôi đã có dịp giới thiệu về anh ở nhật báo Người Việt, “Tính Hiện Thực Trong Thơ Phạm Cao Hoàng”:

         https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/tinh-hien-thuc-trong-tho-pham-cao-hoang/

Sau đây là một trích đoạn của một trong 7 bài thơ của anh đi trong tập “Viết Bên Dòng Potomac”, có tựa đề “Khi Dừng Lại Bên Dòng Potomac”:

và như thế mình đi và đã đến

đã bên nhau thủy tận sơn cùng

tôi nằm xuống để nghe đất thở

tạ ơn đời độ lượng bao dung

 

khi dừng lại bên dòng Potomac

tôi và em nhìn lại quê nhà

buồn hiu hắt thương về chốn cũ

phía chân trời đã mịt mù xa

(Khi Dừng Lại Bên Dòng Potomac)

 

·         Nguyễn Minh Nữu: sinh ở Hà Nội, trưởng thành tại Saigon, hiện là thành viên của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Anh bắt đầu sáng tác từ năm 1970, có truyện và thơ đăng trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn và tiếp tục sáng tác khi đến định cư ở Hoa Kỳ vào năm 1995. Các tác phẩm đã xuất bản: Lời Ghi Trên Đá (Thơ), Thương Quá Sài Gòn Ngày Trở Lại (Bút ký), Thuồng Luồng Mắt Biếc (tập truyện), Đất Nhớ Người Thương (Bút ký), Chút Tình Đọng Lại (Tuyển tập thơ, văn, nhận định và tranh vẽ của nhiều tác giả) và Lời Ghi Trên Đá (CD nhạc gồm chín ca khúc phổ từ tập thơ cùng tên). Ngoài sáng tác, anh còn say mê làm báo. “Khi định cư ở Hoa Kỳ, niềm mơ ước đầu tiên và lớn nhất của mình là được cầm bút trở lại. Không thể sống toàn thời gian bằng ngòi bút như khao khát, nên tôi tìm kiếm việc làm từ ngành báo chí,” theo anh cho biết trong bút ký “Làm Báo Ở Vùng Hoa Thịnh Đốn”.

     Tờ báo đầu tiên do anh thực hiện là Tuần Báo Văn Nghệ Washington DC,  “một phương tiện kiếm sống bằng quảng cáo thương mại, nhưng nghiêng bài vở về Văn Học Nghệ Thuật như là một cách giữ gìn Tiếng Việt nơi xứ người,” anh cho biết. Tờ báo kéo dài được 18 năm, từ 1997 đến 2014. Cũng trong thời gian này, vào năm 1999, anh sáng lập tạp chí Văn Phong (giấy), một tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật, kéo dài hai năm, phát hành 17 số. Đầu năm nay (2025),  sau khi hai trang “Vuông Chiếu Luân Hoán” (Canada) và “Văn Học Nghệ Thuật Phạm Cao Hoàng” (Hoa Kỳ) dừng hoạt động (do tình hình sức khỏe của hai nhà thơ), anh cho tái bản “Tạp Chí Văn Phong” dưới hình thức trang mạng (online) với sự cộng tác của các nhà văn Hoàng Kim Oanh, Ngô Minh Trí và Nguyễn Thụy Đan.

         http://vanphongtapchi.blogspot.com

 

Anh cho biết, “Tạp chí Văn Phong ra đời nhằm tạo thêm một diễn đàn cho những người yêu mến văn chương, nghệ thuật. Tạp chí sẽ gồm những bài viết về đủ thể loại văn, thơ, âm nhạc, hội họa, biên khảo, tin tức về các sinh hoạt văn nghệ. Bài vở sẽ được cập nhật hàng ngày. Ngoài các sáng tác văn học nghệ thuật, Tạp chí Văn phong sẽ sưu tầm, giới thiệu và lưu trữ các tác phẩm giá trị của văn học miền Nam 1954 – 1975.”

Trong tập “Viết Bên Dòng Potomac”, Nguyễn Minh Nữu có bốn bài thơ. Đây là lần đầu tiên tôi có dịp được đọc thơ anh. Về hình thức, dựa trên loại thơ “bảy chữ” quen thuộc, anh đã tăng, giảm số câu theo tình huống và cảm hứng, khi thì 4, khi thì 6, khi thì 8 và có khi đến 10 câu hoặc nhiều hơn trong một khổ. Thay vì chỉ 4 câu như ta thường thấy ở các bài thơ “thất ngôn tứ tuyệt”, những khổ thơ 6 câu trở lên giúp anh có thể diễn đạt hết một tứ thơ nào đó trong một khổ trước khi chuyển qua một tứ thơ khác trong khổ kế tiếp. Chẳng hạn bài “Thư gửi Nguyễn Hồng Kim Hạnh” có 4 khổ, mỗi khổ 6 câu; đây là khổ thứ ba:

Thôi nhé bây giờ như sóng xô

dập dờn từng lớp phủ lên bờ

đã đến đã đi và đã sống

Hồn nhiên như tiếng khóc ban sơ

Chiêm nghiệm hiểu cho cùng Lẽ Thật

Chỉ ghé qua như một giấc mơ

(Thư gửi Nguyễn Hồng Kim Hạnh)

 

Về nội dung, thơ Nguyễn Minh Nữu toát ra một nét đặc trưng rất riêng của anh, đó là phảng phất không khí/mùi biên tái, hoài cổ. Không khí/mùi này, trước hết, xuất phát từ cách sử dụng ngôn ngữ mang âm hưởng cổ điển, chẳng hạn: lưu hương, sầu cố xứ, khiêm nhẫn, tráng khí, luân lạc, đầu bạc, khí khái, truân chuyên, thất tán, bi tráng, hạc vàng, thù tạc, người thiên cổ, chiến trận…; và sau đó, xuất phát từ cách cấu tứ và nhịp. Cả ba yếu tố này (ngôn ngữ, ý tưởng và nhịp điệu)  kết hợp lại khiến hơi thơ tỏa ra nghe mênh mang, sâu lắng. Chúng cay và đắng nhưng không nhức và buốt, đau buồn nhưng không tuyệt vọng, da diết nhưng không sầu não, giận hờn nhưng không hận thù, trách mình hơn oán người, vân vân.

Ta khóc có đâu vì vết cắt

Mà khóc vì chung giọt máu đào

Áo trận ngày xưa giờ thất tán

Đầu xanh nay đã bạc từ lâu

(Gặp Lại Bạn Cũ Thời Chinh Chiến)

 

Với hơi thơ đặc trưng như thế, bài “Về Lại Saigon Sau 20 Năm” in trong tập sách đã gần như lột tả hết tâm trạng bùi ngùi và nỗi niềm chua chát của thế hệ chúng tôi - những người mà số phận gắn liền với bao thăng trầm chế độ Việt Nam Cộng Hoà – khi trở lại thăm “cố đô” Sài Gòn trong thân phận của kẻ bị buộc phải sống lưu vong. Mời đọc vài trích đoạn:

 

Ta đã về đây lòng Đại Lộ

Thênh thang mà dạ chắt chiu buồn

Đăm đăm đôi mắt người thiên cổ

Vẫn dõi theo ta tới ngọn nguồn

Thoáng thế hai mươi năm khốn khổ

Mắt lệ ai, mà mưa vẫn tuôn

Hành trang chỉ có vài trang giấy

Hồn Đường thi vọng rất hoang mang

Lưng nghe đã mỏi mòn sông núi

Chiêu niệm người đưa bóng hạc vàng

Về đây lòng vẫn ngoài biên tái

Đốt nén hương thương chuyện lỡ làng

 

Ta đã về đây vuông chiếu cũ

Thù tạc dường như thiếu mấy người

Ngâm lại câu thơ tình đắm đuối

Bật cười như chuyện tiếu lâm thôi

Thả xuống giữa bàn hoa giống lạ

Chờ xem năm tới sẽ đâm chồi.

 

Tuy man mác buồn, nhưng mấy câu kết lại ôm ấp một niềm hy vọng. Dẫu mông lung, nhưng cũng giúp nhẹ lòng phần nào nỗi đau của người thua cuộc.

 

TRẦN DOÃN NHO

(9/2025)