Bé Hiền vừa
nhìn thấy mẹ bước vào nhà vội chạy ra mừng; vì lúc nào về, mẹ
cũng cầm theo thức ăn cho các chị nấu cơm tối.
Tuy ngày nào
cũng từng ấy thứ, vài bó rau muống, rau lang, một tí thịt mẹ bán
còn dư đem về xào chung với rau hoặc rim mặn cho mỗi đứa một miếng
nhỏ xíu, còn dư nước mắm kho thịt thì chan cơm ăn đã lắm; cơm thì
lúc nào cũng phải độn bo bo, độn sắn (khoai mì) thì mới đủ cho cả
nhà 11 miệng ăn. Mẹ là nguồn cung
cấp thực phẩm cho cả nhà, có mẹ về là có thức ăn. Hiền thấy vui và ấm áp trong lòng khi
thấy mẹ về. Có lẽ chỉ có mẹ ân
cần hỏi han Hiền mỗi ngày, còn bố thì hay quát tháo, la mắng các
anh chị nên Hiền chẳng dám đến gần bố.
Không chỉ
riêng Hiền sợ bố, mà các anh chị của Hiền cũng sợ bố một phét vì
bố hay đánh đòn, đánh thật đau, các anh chị khóc lóc van xin mà bố
vẫn đánh cho đến khi bố mỏi tay thì thôi.
Hiền chưa thấy bố cười bao giờ.
Năm 1975, bố phải đi học tập cải tạo khi Hiền còn quá bé, chỉ
mới 7 tuổi. Hai năm sau bố về, Hiền
đã lên 9 tuổi, nghe các anh chị gọi bố, Hiền cũng gọi theo nhưng vui
được vài ngày thì bắt đầu thấy sợ vì bố hay quát tháo các con, kể
cả mẹ.
Từ khi trở
về, bố chẳng làm gì; chỉ có mẹ một tuần 7 ngày dậy sớm khi trời
chưa tỏ để đi lấy thịt về bán ở chợ Thiết để nuôi đàn con 9 đứa và
một ông chồng.
Hôm nay mẹ
đưa gói thịt lớn hơn mọi ngày cho chị Thoa. Nhìn thấy gói thịt, chị Thoa trợn mắt
có ý hỏi sao miếng thịt hôm nay lớn thế, có lẽ nửa ký chứ ít. Mẹ hiểu ý nói ngay:
-Hôm nay bán
ế nên còn dư nhiều. Thôi! Con cứ kho
hết cho khỏi bị hư rồi chia ra ăn nhiều ngày.
Nói xong, mẹ
đưa gói gạo cho chị Thêm đem đi cất; gói gạo hôm nay cũng nặng hơn mọi
lần. Mẹ lại giải thích:
-Có chút
tiền mua gạo để dành; chỉ cần độn thêm khoai, sắn hay bo bo là có
thể ăn được vài tuần.
Nói xong, mẹ
quay ra Hiền đưa tay xoa đầu và hỏi thăm:
-Hôm nay con
đi học có vui không?
- Không vui!
-Sao thế?
-Thằng Hùng ngồi
cạnh con không đi học hôm nay. Con nghe tụi nó nói thằng Hùng đi vượt
biên rồi.
-Thế à! Sao con biết?
-Hễ trong
lớp có đứa bỏ học là chúng nó bảo thế.
-Con nhớ thằng Hùng lắm à?
-Nhớ chứ! Nó ngồi cạnh con mà.
Anh của Hiền,
là Quân hỏi mẹ:
-Đi vượt biên
là đi đâu vậy mợ?
Bà Thảo trả
lời con:
-Thì họ đi
ra nước ngoài xum họp với người nhà đã đi trước.
Quân lại
hỏi:
-Thế bác Thu
đi Mỹ rồi, khi nào thì mình đi xum họp với bác Thu?
Bà Thảo ôm đứa
con út đang đứng gần vào lòng, trả lời Quân:
- Khi nào có dịp thì mẹ sẽ đi thăm bác Thu, bác hay giúp đỡ nhà
mình lắm.
-Khi nào mẹ đi?
-Làm sao
biết được. Con không nên nói với bạn bè là mình có bác Thu ở bên Mỹ
nhé.
Quân không
hiểu sao mẹ hay dặn anh em mình như thế. Nhưng Quân thấy hãnh diện vì có bác
ruột đang ở Mỹ, thỉnh thoảng gửi một thùng quà về cho gia đình Quân,
nhờ thế mẹ đỡ vất vả phần nào.
Vào những lúc có quà của bác gửi về, nhà mình có thêm thức
ăn, Quân thấy vui lắm.
Trước ngày
30 tháng 4, 1975, bà Thảo làm thư ký trong Quân Tiếp Vụ. Chồng bà là ông Quốc đang mang lon Trung
Úy cũng làm ở Quân Tiếp Vụ. Lương
hai vợ chồng cộng lại cũng tạm đủ nuôi đàn con 9 đứa.
Bà lấy
chồng khi mới 18 tuổi, do bà mối giới thiệu ông Quốc với cha mẹ bà,
rằng ông Quốc chỉ có hai anh em di cư vào Nam với nhau, ông lại đỗ Tú
Tài toàn phần, đi sỹ quan, đeo lon Chuẩn Úy. Lấy ông thì con gái hai
cụ không phải làm dâu. Đã thế, lấy sỹ quan thời đó cũng là điều
hãnh diện cho gia đình. Hơn nữa, hai
cụ rất quý con rể đồng hương, cùng là dân di cư với nhau.
Bà Thảo vâng
lời cha mẹ đi lấy chồng như bao người con gái thời đó, không cần phải
yêu nhau trước, có người tử tế xin cưới là tốt rồi.
Ở với nhau
rồi mới biết tánh nết của nhau. Tánh ông cọc cằn, hay quát tháo,
nhưng được cái không lăng nhăng, không tứ đổ tường. Tánh bà hiền lành,
nhỏ nhẹ nên hay nhường chồng cho yên cửa yên nhà. Ấy thế mà hai vợ chồng sản xuất đều
đều, cứ ba năm hai đứa, có khi cách năm một đứa. Vì thế, sau 14 năm
sống chung, hai vợ chồng đã cho ra 10 đứa con: 5 trai, 5 gái. Nhưng một
đứa con trai đã chết từ khi còn bé vì bệnh sốt tê liệt, lúc vừa 3
tuổi.
Sau 30 tháng
Tư, 1975. Cộng sản miền Bắc tràn vào miền Nam, bà mất việc làm, ông
ở nhà vài tuần rồi bị lừa đi cải tạo.
Nhìn đàn con 9 đứa đang sức ăn, bà chới với xoay xở. Thấy hàng xóm ai nấy đem đồ đạc trong
nhà ra đường bán để có tiền ăn từ từ. Bà còn chút tiền để dành
nhưng sẽ mau hết nếu không tiếp tục làm ra tiền. Bà dặn mấy đứa lớn ở nhà giữ em để
bà đi tìm người hỏi han cách nào làm ăn cho thích nghi với hoàn cảnh
mới.
Cũng may,
trong số mấy chị em cùng làm văn phòng với bà lúc trước, vì cùng
hoàn cảnh nên ai nấy lo kiếm cách khác làm ăn. Có người dắt bà theo ra bến xe đò miền
Tây lúc còn chạng vạng tối để chờ con buôn vừa xuống xe đi bộ ra xa một
khoảng đường là bu lại lấy hàng.
Họ quen mặt nhau nên mua bán nhanh chóng, không cần nói thách,
chẳng kỳ kèo trả giá; mua cho nhanh, bán cho lẹ để chạy cho mau, kẻo
công an đến bắt là mất hết vốn.
Các bà đem
thịt heo “chui” từ miền Tây lên, dấu trong bụng, trong người ra từng bao
nylon đưa cho mấy bà lấy mối, tiền trao, hàng lấy chóng vánh. Sau đó, mấy bà buôn chui lại buộc chặt
những bao thịt vừa mua được vào bụng, vào người mình rồi kéo áo che
lại; vội vàng rời chỗ lấy hàng, lên xe ôm hoặc do người nhà chở về
chợ của mình.
Bà Thảo nhờ
thế mà biết đường đi nước bước. Bà ra chợ Thiết gần nhà thuê trước
một sạp bán thịt vì lúc này nhiều hàng thịt biến mất, họ bỏ chạy
hay dọn về quê nên nhiều sạp bỏ trống.
Có được chỗ bán rồi, hôm sau bà lại theo người bạn đi lấy
hàng. Từ từ bà dạn dĩ lấy hàng,
dạn dĩ bán hàng. Bà Thảo được
cái tánh nhẹ nhàng, giọng nói thủng thỉnh, dịu dàng nên khách dễ
có cảm tình. Bà cũng có một khuôn
mặt khả ái, thuộc loại đẹp, khiến người ta thích nhìn. Đã thế bà
không muốn nói thách làm gì, bán buôn vừa phải cho mau hết hàng để về
nhà với con và được nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc.
Ông Quốc
không phải là lính tác chiến, cũng không phải là Chiến Tranh Chính
Trị nên sau khi đi học tập cải tạo gần 2 năm ông được thả về. Về nhà thì mỗi tuần phải ra công an
phường trình diện, chẳng làm ăn gì được, ông hoàn toàn sống nhờ
vợ. Những người như ông, sau khi đi
cải tạo trở về đều kiếm cái xích lô để đạp hoặc may mắn có cái xe
gắn máy làm nghề chạy xe ôm, nếu có cái xe đạp thì bán xe kem, hay
đẩy xe ba bánh bán nước đá. Còn ông được vợ ưu ái cho ở nhà trông 9
đứa con để vợ yên chí bán buôn đem tiền về trang trải mọi thứ trong
gia đình.
Từ ngày ông
về, mấy đứa con trai lớn bớt chạy rông ngoài đường với bạn bè nên
bà yên tâm hơn; dù sao con có cha như nhà có nóc vậy.
Thời đó xà
bông tắm khan hiếm, bà phải dùng xà bông giặt quần áo pha với nước
cho tan để tắm. Nó chẳng thể nào
khử hết cái mùi hôi của thịt heo mà bà buộc từng bao vào người ban
sáng rồi chạy từ bến xa cảng miền Tây về chợ Thiếc. Cho nên, ông Quốc không chịu được mùi
thịt heo sống còn bám trên người bà nên ít muốn gần bà. Chuyện chăn
gối vợ chồng đâm ra lạnh nhạt. Cũng có thể vì mặc cảm sống nhờ
vợ, tâm lý ông không ổn định, không thoải mái nên bị “tắt điện.”
Bốn giờ
sáng hôm sau, bà Thảo dậy như thường ngày để ra bến xe đò miền
Tây. Nhưng hôm nay bà ghé qua giường
mấy đứa con lớn đứng nhìn từng đứa, rồi qua giường thằng út và mấy
đứa anh nó nhìn một lúc lâu. Có đứa cựa mình, bà chỉ sợ nó thức
dậy trông thấy bà đang đứng nhìn chúng. Bà muốn ôm từng đứa vào
lòng mà không dám gây tiếng động. Bà nén tiếng thở dài rồi dứt
khoát quay đầu ra cửa. Đó là một
ngày gần cuối năm 1979.
Tối hôm qua,
sau khi ăn tối xong, bà đã chờ khi không có đứa nào đứng gần thì vội
nhét cái bao thư nhỏ vào gối của Thoa, đứa con gái lớn. Bà hy vọng
khi nào Thoa tháo áo gối ra giặt sẽ nhìn thấy cái thư của bà, trong
đó bà để lại chút tiền.
Bà ra bến xa
cảng miền Tây hôm nay với mục đích khác: Đi chui! Bà nhờ anh xe ôm thường ngày chở đi nên
trong nhà chẳng ai để ý. Bà chỉ đem theo một túi nylon nhỏ trong để
một bộ quần áo. Trong cái áo đang mặc, bà để ít tiền trong túi để tiêu
xài dọc đường, có gài kim băng. Trong cái quần lót, bà may thêm một cái
túi phía trong để hai tờ giấy $20 đô la Mỹ. Trong người nịt theo 2 chỉ
vàng để đóng cho người ta khi đến biên giới. Đó là tất cả những gì
bà có được.
Nhờ bán
thịt ngoài chợ cả 4 năm nay bạn hàng ai cũng thương; nhất là thấy
hoàn cảnh của bà là gia đình “Ngụy” nên họ tin cậy mách bảo cho bà
đường dây vượt biên bằng đường bộ này.
Bà cảm thấy may mắn vì số tiền họ đòi chỉ có 2 chỉ, trong
khả năng bà có thể lo được.
Sau khi bộ
đội Việt Cộng tấn công vào Cam Bốt đầu năm 1979, đánh tan quân Khờ Me
Đỏ, đám tàn quân chạy qua biên giới Thái Lan thì sau đó ít lâu làn
sóng vượt biên bằng đường bộ của người Việt miền Nam tràn qua Cam
Bốt khá nhiều, vì rất nhiều tổ chức khác nhau đưa người đi chui, họ
kiếm tiền cách này thật dễ dàng.
Bà xuống xe
ôm, trả tiền cho anh xong vội đi về bến xe đi An Giang để gặp người
kia; họ đã lấy vé xe cho bà, bà chỉ cần đưa tiền và lấy vé để đi
cho kịp, khỏi phải hồi hộp việc có mua được vé hay không. Lên xe ngồi xuống ghế của mình bà thở
phào cầu mong cho xe đi đến nơi suôn sẻ, không bị găp công an chặn xét
dọc đường.
Khoảng 3 giờ
chiều xe đến nơi. Mọi người bước xuống; bà kín đáo nhìn quanh tìm
người hướng dẫn. Có một phụ nữ bán
khoai lang luộc đến gần chào bà giả vờ như chào hàng, hỏi nhỏ có
phải bà là “Hoa giấy 2”. Bà gật
đầu, mừng quá nhưng không dám cười. Người kia đưa cho bà hai củ khoai
lang luộc rồi bảo bà đi vào chợ ăn cơm cho no, nhớ ăn ở hàng cơm bình
dân của bà “Được” vì chút nữa sẽ có người đến đưa đi. Bà móc túi lấy ít tiền lẻ trả tiền
hai củ khoai. Bà kia nhắc nhớ cầm theo khoai để dọc đường có cái mà
ăn. Nghe thế bà mua thêm 2 củ khoai nữa.
Vào chợ, bà
nhìn thấy hàng nước, hàng bánh trái lại mua thêm 2 cái bánh tét
chuối, 2 cái bánh ú mặn. Bà có cầm theo 1 chai nước mà bà vẫn đem
theo ra chợ mỗi ngày, nhưng đã uống gần hết. Bà định bụng vào hàng
cơm sẽ xin thêm nước đổ vào.
Bà vào hàng
cơm của bà Được như đã được dặn dò. Bà gọi một đĩa cơm cá kho vì
rẻ tiền. Vừa ăn bà vừa nhớ đến
chồng con, có lẽ họ chưa biết bà đã ra đi thật xa. Chiều nay trước giờ cơm tối có lẽ cả
nhà sẽ nhốn nháo lên vì không thấy bà về. Nghĩ thế bà cảm thấy bồi hồi, khó
chịu. Ăn vừa xong thì có người đàn
bà vào nói nhỏ với bà đi theo cho kịp giờ. Bà trả tiền rồi vội vã đi theo người
đàn bà.
Nơi tập trung
cách xa chợ vài trăm mét, bà đã thấy vài người đứng rải rác quanh
đó. Có một người đàn ông đứng xa
xa ngoắc tay ra hiệu cho mọi người theo ông ta. Từ đó đám người lạ bước theo người
đàn ông được gọi là anh Năm. Anh Năm
đi nhanh và luồn vào ngõ ngách, xa xa lại có một người xuất hiện,
được anh Năm cho đi theo. Ra khỏi khu
dân cư thưa thớt, nương rẫy hiện ra, anh Năm đi trước dẫn đường vào khu
rẫy, đi mỏi chân muốn dừng lại cũng không được. Cứ thế đi cho đến lúc chiều tà thì
đến gần khu rừng biên giới.
Ở đây, một
gã người Miên xuất hiện, anh Năm giao đoàn người lại cho hắn rồi chào
từ biệt. Cả đám giật mình hỏi anh
Năm: “Anh bỏ tụi tôi sao?” anh Năm trả lời: “Nhiệm vụ của tôi chỉ đến
đây thôi. Bây giờ đến phiên anh Kho dẫn tiếp, vì anh là người Miên nên
biết đường đưa ông bà qua đó”
Thế là miễn
cưỡng chia tay anh Năm, đoàn người chỉ còn biết trông vào Kho. Kho bảo mọi người mau đi theo hắn qua
đoạn rừng biên giới này. Các bà
bảo nhau xin hắn cho đi xả một chút rồi mới có thể đi tiếp, hắn
đồng ý chờ.
Chân đã bắt
đầu đau, có bà than biết thế tôi mang giầy bố đi cho khỏe, mang dép
bây giờ đã thấy mỏi chân rồi. Kho
bảo khi qua đến Miên sẽ có xe trâu chở các bà. Nhưng bây giờ phải giữ
im lặng, không được nói lớn tiếng sợ bọn lính biên giới nghe thấy,
nhiều phe nên nhiều thứ lính, gặp lính phe nào cũng đáng sợ.
Cố đi cho
theo kịp mọi người, vừa hồi hộp, vừa mệt mỏi, không ai dám nói lớn
tiếng, chỉ nghe tiếng thì thầm khi cần phải nói. Khi đã vào đất Miên độ hơn 1 cây số thì
có khoảng 5-6 người Miên khác ra đón Kho. Họ trao đổi với nhau bằng
tiếng Miên rồi chỉa súng vào mọi người ra lịnh chia hai toán: đàn ông
riêng, đàn bà riêng, rồi họ bắt đi vào những bụi cây gần đó.
Đàn bà phải
cởi hết quần áo ra, kể cả quần áo lót, các cô xấu hổ không dám
cởi thì nó lấy báng súng đánh váo lưng, ra lệnh “Cởi mau lên”. Đến bây giờ thì mọi người đã hiểu đang
bị cướp nên răm rắp tuân theo.
Chúng lục
lọi tất cả quần áo, lôi ra được bao nhiêu vàng vòng, tiền đô thì thâu
tóm hết. Còn bắt các bà khom lưng xuống cho chúng lục bên trong xem
có dấu chỗ kín kim cương hay vàng thẻ không.
Bà Thảo
nghĩ thầm thảm nào chúng chỉ lấy 2 chỉ vàng, qua đây chúng vơ vét
hết, chẳng ai còn một chỉ vàng hay một đồng đô la nào trên người. Nhưng
lấy xong thì xin tha mạng cho chúng tôi đi cho trót. Bà cầu mong như
thế.
Các cô khóc
thút thít vì cảm thấy bị làm nhục. Chúng quát lên: “Câm miệng!” Thế
là tắt ngúm tiếng khóc, chỉ còn tiếng nấc nhè nhẹ không dám thoát
ra khỏi cổ.
Xong việc
bóc lột, chúng lại thúc đẩy mọi người tiến bước. Bà Thảo nhìn những người đồng hành như
nói ngầm: “Chúng tiếp tục đưa mình đi thì phước lắm rồi.”
Sau 1 tiếng
đi bộ, đã ra đến gần đường xe chạy.
Chúng bảo đứng chờ, khi xe hàng đến gần rồi ngừng lại. Chúng ra dấu cho mọi người leo lên, ngồi
chung với hàng hóa. Chạy vài giờ
thì xuống xe, lại núp vào các bụi cây chờ một xe khác đến đưa đi
tiếp. Mỗi lần đổi xe là mỗi lần
được chui vào bụi đi xả. Ai nấy có thức ăn đem theo thì mở ra ăn cầm
chừng, có nước cũng uống cầm chừng.
Sau một ngày
mệt nhọc, chúng đưa đến một căn nhà trọ để ngủ qua đêm, mọi người
quá mệt và quá khát, nên múc nước trong lu ra uống ngon lành. Bọn
dẫn đường phát cho mỗi người một hộp cơm dù chỉ có cơm và 1 khoanh
cá kho, một nắm đậu đũa sống cũng thấy ngon lành như ăn tiệc.
Họ phát vài
cái chiếu cho cả đám nằm chung, sát nhau như xếp cá hộp. Vì trong căn nhà này còn vài toán đi
chui khác cũng tụ lại đây.
Cũng may,
đám người Miên dẫn đường không bỏ họ mà đưa cho trót đến biên giới
Thái Lan thì chia tay.
Từ biên
giới, đám người đi chui phải dìu dắt nhau vượt thêm một đoạn đường
rừng, rồi lần mò đến trại tị nạn.
Bà Thảo và
đoàn người đi chung gần 20 người nhìn nhau cười sung sướng, cười như
chưa từng cười bao giờ.
Sau những
thủ tục nhập trại, bà Thảo và đám người đi chung đi kiếm chỗ ở,
nghỉ ngơi qua đêm để lấy lại sức.
Hôm sau theo
người đến trước ra chợ tham quan, mục đích tìm việc làm. Ra chợ thì họ thấy đã có nhiều người
Việt Nam đang làm thuê cho các tiệm ăn, tiệm chạp phô. Hỏi ra, toàn là
người tị nạn, ra đây làm công để có tiền gửi về Việt Nam cho gia
đình vì ở Việt Nam ai cũng trông mong người đi thoát tiếp tế cho
người còn ở lại.
Bà Thảo nghe
thế cũng vội vàng tìm kiếm xem có hàng quán nào cần người thì bà
làm ngay. Tiếng không biết thì cứ thấy thau chén đĩa là thò tay vào
đòi rửa, bà chủ xe bún mắm bò chóc cũng thông cảm gật đầu. Thế là từ hôm đó bà Thảo có việc rửa
chén, lau dọn và phụ sơ chế thức ăn.
Bà chẳng ngại lao động vất vả vì bà đã quen vất vả từ sau 30
tháng 4, 1975.
Làm ngày
nào lãnh tiền công ngày đó. Bà
chủ bán thứ gì thì cho người làm công ăn thứ đó. Ăn mãi một thứ mỗi ngày cũng ngán tận
cổ, nên các bà Việt tịn nạn đang làm công ngoài chợ nghĩ ra cách
trao đổi phần ăn cho nhau cho đỡ ngán. Khi bà có tiền công thì hỏi
ngay cách đánh điện báo tin cho chồng con biết bà đã đến nơi an
toàn. Bà chỉ viết vỏn vẹn vài
chữ “Mẹ đã gặp bác Thái”. Bà cũng đã biên thư cho chị Thu đang ở Mỹ
biết bà đã vượt biên đến Thái Lan bình yên. Chị Thu gửi ngay cho bà $40 đô để bà có
tiền tiêu dùng.
Khi để dành
được đủ để đóng một thùng quà gửi về, bà gửi ngay vì sợ chồng con
đang đói ở nhà. Bà ở trại tị nạn
Thái Lan hơn 1 năm thì được chị Thu bảo lãnh qua Mỹ đầu năm 1981.
Cái ngày bà
Thảo đi vượt biên, không trở về nhà. Chồng con bà chờ mãi không thấy
bà về thì ông Quốc bắt hai đứa con lớn ra chợ kiếm mẹ. Chợ đã vắng teo, chẳng còn sạp nào
còn mở. Chẳng biết hỏi ai nên chúng về thưa lại với bố. Ông Quốc tức quá quát tháo ầm ỹ, đổ
hết cơn thịnh nộ lên đầu các con. Ông
chửi bà là đồ mất nết, bỏ nhà theo trai hay sao chứ! Ông oán bà đi mà không xin phép ông, vì
từ xưa đến giờ, đi đâu bà cũng phải xin phép ông. Ông cho phép thì bà
mới được đi. Cả bầy con ngồi im cúi đầu chẳng dám nhìn bố. Bụng
chúng đang kêu ồn ào, chỉ cầu mong ông cho phép ăn dù hôm nay mẹ không
về. Chờ cả tiếng sau, thấy cha đã
thấm mệt và hết còn sức để la hét. Thoa, con gái lớn xin phép bố:
-Con xin phép cậu cho con dọn cơm cho cả nhà. Các em, chúng nó đói lắm rồi ạ!
Ông Quốc
không trả lời, chỉ lừ mắt nhìn Thoa nên Thoa hiểu ý, rút ra sau bếp
gọi vài đứa em phụ dọn cơm.
Qua hôm sau,
ông Quốc gọi người đến bán bộ ghế salon bằng gỗ đánh vẹc ni mầu hổ
phách lúc trước mua ở đường Hồng Thập Tự khá đắt tiền. Ông bảo với các con rằng:
-Nhà này làm gì có khách đến chơi nữa mà cần ghế cho khách ngồi.
Chúng mày ngồi ăn cơm hay học bài thì ngồi ở bàn ăn là được rồi.
Các con đứng
nhìn người ta khuân bộ bàn ghế đi mà buồn bã trông theo, vì đó là
kỷ niệm của cả nhà. Nhưng chẳng đứa nào dám phản đối, vì biết
không có mẹ, chỉ còn nước bán đồ mà tiêu xài.
Sau đó ông
Quốc dò hỏi vài người ông quen để họ chỉ cách làm ăn. Ai cũng thông cảm cảnh gà trống nuôi con
của ông và nhất là sỹ quan “Ngụy” nên sẵn sàng giúp đỡ. Họ bầy ông cái nghề thêu tranh, thêu khăn
bàn. Họ cung cấp đồ nghề, mẫu mã
và đến tận nhà chỉ cho các con ông. Từ đứa lớn đến đứa bé, dù trai
hay gái, hễ cầm được cây kim, sỏ được sợi chỉ là ông bắt làm việc
hết cả bầy. Cái khoảng trống trong
phòng khách do thiếu vắng bộ ghế salon thì được trưng dụng làm chỗ
để bốn, năm cái khung thêu.
Thế là,
ngoài giờ học, các con ông phải thêu tranh, thêu khăn bàn, chúng nghe
lời ông răm rắp, trai gái gì cũng phải thêu để kiếm tiền.
Các con ông
Quốc rất nể tài xoay sở làm ăn của ông. Ông làm ăn rất tín nhiệm
với khách, họ dám giao hàng cho ông dù ông không có tiền vốn đưa
trước để lấy vật liệu. Nhờ tính
liêm khiết, giữ chữ tín nên ông Quốc tạo được việc làm cho các con
và mấy bố con có thể duy trì cuộc sống sau khi vợ ông đã bỏ đi.
Nhưng bà
Thảo đâu có bỏ chồng con đói khát.
Vừa đến trại tị nạn Thái Lan, bà đã lo kiếm việc làm để
tiếp tế nuôi chồng và một bầy con 9 đứa. Tháng nào bà Thảo cũng
gửi một thùng hàng về tiếp tế cho chồng con. Đến năm 1981, bà Thảo
được chị gái bảo lãnh đi Mỹ.
Chị bà Thảo
đang làm chủ một nhà hàng Việt Nam, bán đủ thứ món nên cho ngay bà
Thảo một chân phụ bếp. Chị Thu khuyến khích bà:
-Dì chịu
khó học việc, từ từ lên bếp chánh thì bớt vất vả. Vài năm nữa bảo
lãnh chồng con qua thì có thể mua nhà cho cả nhà ở. Vì nhà dì đến 11 người thì chẳng thuê
được apartment, dì cũng chẳng có tiền thuê nổi cả một căn nhà.
Bà Thảo lại
nai lưng làm việc, tháng tháng lại gửi một thùng quà về tiếp tế cho
chồng con. Khi biết được chồng con
bà có việc làm tại gia, có thu nhập để mua thức ăn mỗi tháng thì
bà không gửi thùng quà mỗi tháng nữa, mà gửi 2 tháng một thùng.
Phần tiền còn lại bà để dành để mua nhà.
Bà Thảo
được anh rể dạy lái xe. Nhưng dù
thi đậu, có bằng lái mà bà chẳng dám tự lái xe. Vì thế, bà vẫn theo xe chị Thu đi làm
mỗi ngày vì vẫn còn ở chung nhà với chị. Bà chỉ trả tiền phòng
cho chị Thu, ăn uống thì bà ăn ở tiệm ngày 3 bữa với thợ nên tiết
kiệm được nhiều.
Sau ba năm ở
Mỹ, bà bắt đầu nộp đơn bảo lãnh cho chồng con. Mãi đến năm 1991 chồng và 6 đứa con bà
Thảo mới được qua Mỹ. Ba đứa con
lớn vì đã có gia đình nên đến năm 1993 mới được bảo lãnh qua sau.
Bà Thảo vui
vẻ ra mặt sau 12 năm xa cách chồng con. Giờ đây căn nhà single house hai tầng tràn
ngập tiếng nói, tiếng cười. Các
con bà phấn chấn với cuộc sống mới. Ba đứa nhỏ nhất qua đây khi đã
19, 21 và 23 tuổi thì xin vào
Thế nhưng ông
Quốc chồng bà vẫn để tâm thù bà vì ra đi không xin phép ông. Ông nhất
định không nói chuyện với bà, không ở chung phòng với bà, xem như hai
người hoàn toàn ly thân dù vẫn ở chung nhà. Nhưng bà vẫn không
yên thân với ông, hở ra là ông mở miệng đay nghiến bà, bà phải im
lặng lánh xa ông. Sau vài năm, ông Quốc nộp đơn xin ly dị vợ dù vẫn ở
trong nhà của bà. Bà vẫn đi làm mỗi
ngày đem tiền về lo trả tiền nhà, tiền điện nước, điện thoại và cả
tiền chợ. Khi mấy đứa lớn có việc
làm thì phụ mẹ trả tiền điện nước, điện thoại và tiền chợ. Nhưng
từ từ chúng có gia đình và dọn ra riêng, bà vẫn là người trang trải
mọi thứ trong nhà.
Cho đến khi
ông Quốc đủ tuổi xin nhà trợ cấp cho người nghèo, ông nộp đơn
ngay. Khi nhận được nhà, ông dọn ra. Bà cũng đã đến tuổi nghỉ hưu, bà bán
nhà và dọn đi California theo hai đứa con lớn đã dọn qua đó vài năm
trước.
Qua
California, bà ở nhà giữ cháu ngoại, cháu nội giúp hai con lo buôn
bán ở nhà hàng do chúng tự mở. Khi các cháu đã lớn, không cần bà
giữ nữa thì cũng là lúc cơ thể bà đã mệt mỏi, phát bệnh của
người già. Con bà nộp đơn cho bà vào nhà già ở chung với các ông bà
lão người Việt cho vui.
Nhờ ở nhà
già có nhiều người Việt Nam bà quen được một ông bạn già hơn bà vài
tuổi, là ông Khang. Ông Khang lúc trước là sỹ quan cấp tá trong quân
lực Việt Nam Cộng Hòa, ông qua đây theo diện HO. Sau vài năm qua Mỹ, vợ
bỏ ông. Bà Thảo đoán có lẽ ông
cũng từng làm khổ vợ nhiều năm nên bây giờ bà có cơ hội bung ra thì
đi ngay. Nghĩ thế nhưng bà không cần hỏi. Chỉ biệt hiện tại ông Khang
rất tốt với bà, khi bà cần đi đâu, ông lái xe chở bà đi ngay. Hai
người lại nói chuyện tâm đắc với nhau lắm. Cuối tuần nào ông cũng
chở bà ra ngoài ăn tiệm rồi đi chợ. Bà và ông vẫn ở hai người hai
căn apartment trong cùng khu, nhưng ngày nào ông cũng qua nhà bà ăn chung
ba bữa cơm vì ông giao hết tiền chợ cho bà.
Riêng ông
Quốc, sau khi vào nhà già nhiều năm, ông đã qua đời vì tuổi già.
Nhưng rồi tai
họa ập xuống, bà bị tai biến mạch máu não. Đưa vào cấp cứu thì
cứu sống được nhưng bà phải ngồi xe lăn vĩnh viễn. Khi bà trở lại căn apartment của bà, ông
Khang ngày nào cũng qua săn sóc bà, đẩy xe lăn cho bà ra ngoài phơi
nắng mỗi ngày. Nhưng bản thân ông Khang cũng có vài bệnh già. Các con bà ở Virginia quyết định đem bà
về Virigina để có thể săn sóc bà. Tại Virginia, bà vẫn xin được chương
trình Long Term Care nên có người đến săn sóc bà mỗi ngày 8 tiếng,
tuần 7 ngày.
Ngày nào bà
và ông Khang cũng gọi cho nhau, ông Khang cứ nhắc bà trở lại California
để bầu bạn tuổi già với ông vì cả hai người biết rằng họ chẳng
còn sống bao lâu nữa.
Bà Thảo lại
năn nỉ các con mua vé máy bay cho bà trở lại Cali. Các con dù rất
thông cảm với nỗi cô đơn của mẹ nhưng phải khuyên bà rằng:
-Bác Khang cũng đau yếu nhiều, bác bị tiểu đường nặng, bản thân bác
cũng phải cần người giúp, làm sao bác lo được cho mợ? Thôi mợ với bác Khang gọi nhau mỗi ngày
nói chuyện cũng được rồi.
Một hôm, bà
Thảo thấy nhức đầu, buồn nôn, bà nôn thốc tháo ra nhà; người săn sóc
gọi cho con gái bà báo tin, thì con gái trả lời đang bận có khách
vì tiệm đang đông khách. Bà Thảo
lại nôn thêm vài lần nữa. Đến gần
8 giờ tối, khi con
gái về, con trai từ nhà khác đến thăm, thấy bà kêu nhức đầu quá, bà
lại nôn thốc tháo ra nhà. Lúc này
các con bà mới gọi xe cứu thương đến, xe đến ngay trong vòng 10 phút
đưa bà đi. Đến nhà thương thì người ta phát hiện ra bà đã bị tai
biến mạch máu não, họ gọi trực thăng đưa bà qua nhà thương Fairfax.
Nhưng qua chiều hôm sau thì bà tắt hơi.
Chuông điện
thoại ở cái cell phone của bà lại reo lên. Con trai bà nhận ra số
phone của ông Khang nên bắt lên trả lời:
-Thưa bác, mợ cháu vừa mất chiều nay.
Cháu cũng đang tính gọi cho bác báo tin nhưng bác đã gọi qua.
Có tiếng ông
Khang bật khóc bên đầu dây bên kia.
Có lẽ suốt
cuộc đời làm vợ ông Quốc, bà Thảo chưa bao giờ thật sự có hạnh
phúc, nhưng bà an phận làm vợ, làm mẹ, không so đo phân bì với những
người đàn bà may mắn hơn bà. Có lẽ thời của bà, phụ nữ chẳng dám
đòi hỏi có hạnh phúc, được chồng tôn trọng hay săn sóc, quan tâm, nên
bà thấy bình thường khi có ông chồng cọc cằn hay quát tháo, hay gia
trưởng. Cho đến cuối đời, bà gặp được ông Khang, người luôn tôn trọng
bà, săn sóc bà, nói năng nhỏ nhẹ với bà, thì bà mới biết được
hạnh phúc của người được thương yêu là thế nào. Bà tự an ủi dù trễ, nhưng vẫn còn hơn
không bao giờ biết được hạnh phúc là gì.
Bà Thảo qua
đời ở tuổi 81, đem theo một tình yêu muộn màng nhưng thật đẹp.
TT-Thái An
7/18/2021