Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

666 . ĐẶNG QUYẾT TIẾN : TẠP CẢM Thơ

                                                                                                          


TẠP CẢM


1.

Tôi cứ cố mà không tài nào hiểu nổi
Bạn?
Còn bạn có hiểu không?
Hay cũng như tôi bất lực?
Còn chúng ta số nhiều số đông?
Ai hiểu
Ai không hiểu

Phi lí đến nực cười
Phi lí đến bi ai
Phi lí đến cỏ cây phải giật mình ngác ngơ rũ héo
Phi lí thậm phồn nhởn nhơ, bấn loạn
Ngôn từ bất lực
Thi ca bất lực
Sắc màu đường nét giai điệu thanh âm bất lực
Sân khấu giơ tay chấp nhận quy hàng
Nghệ thuật thứ bảy mặt xanh xám lắc đầu
Bất lực và tê dại
Không tài nào hiểu nổi
Bốn phía nhởn nhơ diễn tấn trò câm
Bốn phía quay cuồng nhào lộn những ảo hình bầy rối
Tôi cứ cố mà không tài nào hiểu nổi
Một câu chửi thề rơi vào khoảng trống không
Chửi thề tiếp và giật mình tự thấy tâm thần rối loạn

2.

Tôi cứ cố mà không tài nào hiểu nổi
Tấn trò đời
Đèn cù bất động
Đàn kiến leo phải cành cụt
Những con rối vô hồn
Đàn tắc kè biến sắc
Lũ vẹt bập bẹ những vô nghĩa thanh âm
Những ảnh hình, những so sánh và những biểu tượng đã thành lạc điệu
Ngay cả nỗi đau bất lực của chàng Hoàng tử Hamlet cũng trở thành nhạt nhẽo
Vị Hương làng, Vũ Đại làng bỗng thành xa lạ hôm nay
Tấn trò giả bỗng trở thành niềm tin không thay thế
Huyền thoại phố phường khiến chết rũ huyền thoại cổ xưa
Huyền thoại phố phường ngổn ngang bá láp
Khiến tôi
Khiến bạn
Ngẩn ngơ
Khờ
Ngốc
Bất lực
Hết đợi chờ...

LIÊN VĂN BẢN
[Hiện về từ những trang văn...]

Ôi khủng khiếp khủng khiếp khủng khiếp!
Ôi tang tác đảo điên đảo điên tang tác
Như khu vườn hoang thối tha đầy cỏ mọc
Chập chờn bóng quỷ hình ma nhập nhoạng hoàng hôn
Trăng tái nhợt sắc màu bệnh hoạn
Mặt người bềnh bệch loang lổ hồn rắn rết (*)
Miệng người há ngoác trắng nhởn những nanh dài nhọn hoắt
Miệng người hể hả cười đỏ lòm và tanh
Kinh hoàng ôi hai tiếng con người con ngợm con thú
Mặt trời vàng ềnh ệch điềm báo dồn dập tai ương
Những làng Mùi, làng Macondo, làng Vũ Đại u ám hôn mê trường kì ngắc ngoải nẫu nhừ ung thối cuối mùa.
Những thây ma sống nương nhờ những linh hồn chết
Trái tim chó đặt lồng ngực con người
Ma cà rồng rỡn chơi trong hội lễ
Trang nghiêm thề trang nghiêm như rặn ỉa
Nhợt nhạt vui nhâng nháo bi hoan
Ác địa, ác giang, ác sơn, ác mộc, ác điểu, ác nhân nghi ngút lẩu
Phường bát âm hùng hổ tấu khúc quân hành
Cờ tang đỏ lòm màu máu
Trần truồng vua bị đuổi ra đường
Ngai vàng trống rỗng
Đầm đìa máu
Âm u tù ngục
Vũ điệu tan hoang
Vũ điệu ma vương
Đêm lặng ngắt
Tái nhợt đất trời

Cuộc hành hương vô vọng
Linh Thứu Sơn giông gió tơi bời.
----
(*)Mượn ý của W. Shakespeare.

LOẠN ÓC
(Viết lại Gulive du kí...(

Là tấn trò đời - ôi ban dắc
Sao ông tài thế? nhà văn ơi
Tấn trò đời ái ố hỉ nộ
Kết cục tất tật ngơ ngác cười.

Những vai diễn thượng thừa, mạt rệp
Cảnh đặt bày nhí nhố lăng nhăng
Trò hí lộng trang nghiêm bày đặt
Xứ bu ku thế giới ai bằng!

Xứ bu ku cực kì ngạo nghễ
Quan ranh ma dân chúng lú mê
Ai cũng thế mỗi khi mở miệng
Đều tự hào! Sau đó chửi thề!

Chửi thề mà nghe hay như hát
Chửi chán rồi tất cả nghêu ngao
Toàn hành khúc với nhịp ba bốn
Mạnh ai nấy hét loạn cào cào.

Xứ bu ku buồn như chấu cắn
Chấu cắn thâu đêm vẫn thấy thèm
Chúng dân chán đời vô tửu quán
Rượu sếch tưng bừng sếch thâu đêm.

No rượu chúng dân vật ra ngủ
Bờ bụi cứ như bầy thú hoang
Hoang thú tụ bạ văn minh diễn
Văn minh nhiều như rác bên đàng.

Xứ bu ku một lần ta đến
Như nhai phải sạn! Ớn! Nôn khan
Bất ngờ, trời nổi cơn đại vũ
Đại hồng thủy. Bu ku tan hoang.

Bu ku xứ sau cơn hồng thủy
Cỏ non tơ mầm nhú lan lan
Vạn vật hồi sinh trong veo nắng
Bu ku mang bóng dáng thiên đàng!

CHỢT NHỚ
TƯỚNG VỀ HƯU
CỦA NGUYỄN HUY THIỆP

Khi ông tướng về hưu xuất hiện (*)
Với gương mặt già nua và rất buồn rất rã rời rất tả tơi và rất nhầu nát
Ngơ ngác trước những biến thiên vật đổi sao dời nương dâu bãi biển lộn ngược lộn xuôi nhộn nhạo mặt ma mặt quỷ mặt người
Đèn cù xoay xoay vần vũ
Ông tướng về hưu cù rù ủ rũ
Quá khứ xa vời
Mịt mờ
Sương khói
Lãng quên
Ông tướng đã hết thời
Ván cờ tàn
Hết cuộc chơi
Sĩ tốt giải nghệ
Tượng cụt què
Tướng đi ỉa kinh niên
Xe long lở
Pháo thì què như mã
Ván cờ hết sang sông
Tàn
Vắng...
Ông tướng về vườn
Ông tướng lẳng lặng tự mai danh tự trốn biệt tự biến thành vô tăm tích
Ông tướng về hưu hóa vô danh
Một - kí - hiệu - mất - nghĩa!

Khi ông tướng về hưu tái xuất giang hồ
Vẫn hùng dũng oai phong
Hét ra lửa
Mửa ra khói
Ngôn từ hùng dũng pha trộn ẻo lả bolero khói sương dân túy
Ông khuân bê bưng vác hòn đá quá khứ khổng lồ lên cao sơn chói lọi
Ông tướng về hưu còn nhiều ham hố cuộc chơi
Ông một kì thủ không bao giờ thất bại
Xe pháo mã tân trang
Ông tướng mơ màng cưỡi voi hùng hổ
Sĩ tốt mang theo đồ ăn nhanh giá rẻ vỉa hè
Ông tướng đã uống đủ thuốc phòng ngừa đi ỉa nhiều năm
Ông tướng về hưu không chịu dời cuộc chơi lạc thời tẻ ngắt
Ông tướng về hưu trọn đời mơ những nẻo đường ra trận mơ những trận đánh hào hùng thịt nát xương tan lênh loan máu
Ông tướng về hưu nhìn đâu cũng thấy sa trường
Ông tướng về hưu cao giọng
Ông tướng về hưu ôi ông tướng đã về hưu không chịu mai danh ẩn tích
Lồ lộ mua cười
Nỗi ngán ngẩm
Một thời không chịu chết.

----
(*) Tên một bài phê bình của Đặng Anh Đào.

CÃI LỘN QUỐC

Tặng Cụ anh Khắc Thái!

Chúng ta rảnh rỗi và cay nghiệt
Thường rất lùn và mắt tí hin
Vỉa hè, quán cóc...thành não trạng
Ham cãi nhau! Thật vãi cả lìn!

Xăm xoi xét nét thích suy diễn
Chuyện gì cũng thò mũi ngó nhòm
Tẩn mẩn đếm đo...Rồi cao giọng
"Thanh từ lệ cú" phì phì tuôn!

Toàn giọng bố đời! Rất cao ngạo
Thoáng nghe dậy mùi óc hủ nho
Rưới thêm tí Phật và tí Lão
Thành ra uyên bác và ngây ngô.

Ra vẻ thanh cao! Khinh quyền lực
Và khinh thế tục khinh bạc tiền
Ngôn từ lộ rõ mùi...hậm hực
Ghen ăn. Tức ở. Lộ trước tiên...

Chuyện vừa nói, lộ ra rõ nhất
Nơi hậu trường trí thức văn nhân
Tương khinh. Tương bỉ. Và tương khắc!
So với chúng dân gấp vạn lần!

Dẫn chứng!? Thôi rồi! Nhiều vô kể
Chỗ tôi. Chỗ bạn. Chỗ chúng ta
Có ớn không? Chắc là ớn lắm
Nước mình đích đáng/thị cõi ta bà.

Trợn mắt, cong môi...lời cay nghiệt
Đá mèo mắng chó...giọng rền vang
Đạp thúng đụng nia...sôi sục sục
Ai cũng trong tư thế sẵn sàng.

Thương thay nước mình! Ta bà quốc
Văn nhân thi sĩ hệt trẻ con
Thoắt cười thoắt khóc xoay chong chóng
Ngây ngô in hệt ông cụ non.

Thương ôi nước mình cãi - lộn - quốc!
Lãng xẹt nguyên cớ - ỉa chẳng ra
Cãi - lộn - quốc! Chán ngơ chán ngắt
Ối giời ôi! Sao lắm giặc già! 

665 . ÂU THỊ PHỤC AN . Trang thơ

                                                                                          


YÊU DẤU

 

Ta chạm chân lên ngày tháng cũ

Những mùa hoa ký ức rộn ràng

Những dấu yêu mịt mờ hương rũ

Ta trở về để nhớ miên man

 

Ta mộng gì dưới ngàn lá cỏ

Mùa đông gầy thao thức hàng cây

Ta sẽ khóc khi trời mưa nhỏ

Nhớ lá thư tình e ấp trao tay

 

Đường hoa nắng ngập ngừng chân bước

Biết ngày sau có nhớ ngày nay

Ta sẽ khóc như thời mít ướt

Để một người vỗ nhẹ bờ vai...

 

Âu Thị Phục An

 

TỰ TRÀO

 

Để cư trú trên một miếng đất đen

Phải cúi xuống né ánh mặt trời

Thứ chủ quyền khống không giấy phép

Là một mầm sống ngót nghét sự tồn

 

Cái cách tồn tại mỏng manh như giấy

Thứ thịt da nuôi bằng gạo mục

Ăn rau khô và ngủ kiểu ác mộng

Một lũ cừu phờ phạc cõi tồn sinh

 

Một chút bao la trên mây trời

Một thoáng quên cho đời bớt nhọc

Lũ gái điên cuồng phơi trò...sang chảnh

Mọc mãi trò điên ngu hết trăm năm

 

Chủ nghĩa mất tiêu trong lòng dân đen

Cơm áo quơ quào lũ người mãi khóc

Bàn chân chai cứng đạp trên phù du

Những con khỉ nhảy trên sân khấu ...tù.

 

Mùa mưa bão

Âu Thị Phục An.

 

 

 

664 . TT THÁI AN . HAI VAI GÁNH NẶNG CHỒNG CON.

                                                                            

                                                                          

 

Bé Hiền vừa nhìn thấy mẹ bước vào nhà vội chạy ra mừng; vì lúc nào về, mẹ cũng cầm theo thức ăn cho các chị nấu cơm tối. 

Tuy ngày nào cũng từng ấy thứ, vài bó rau muống, rau lang, một tí thịt mẹ bán còn dư đem về xào chung với rau hoặc rim mặn cho mỗi đứa một miếng nhỏ xíu, còn dư nước mắm kho thịt thì chan cơm ăn đã lắm; cơm thì lúc nào cũng phải độn bo bo, độn sắn (khoai mì) thì mới đủ cho cả nhà 11 miệng ăn.  Mẹ là nguồn cung cấp thực phẩm cho cả nhà, có mẹ về là có thức ăn.  Hiền thấy vui và ấm áp trong lòng khi thấy mẹ về.  Có lẽ chỉ có mẹ ân cần hỏi han Hiền mỗi ngày, còn bố thì hay quát tháo, la mắng các anh chị nên Hiền chẳng dám đến gần bố.

 

Không chỉ riêng Hiền sợ bố, mà các anh chị của Hiền cũng sợ bố một phét vì bố hay đánh đòn, đánh thật đau, các anh chị khóc lóc van xin mà bố vẫn đánh cho đến khi bố mỏi tay thì thôi.  Hiền chưa thấy bố cười bao giờ.  Năm 1975, bố phải đi học tập cải tạo khi Hiền còn quá bé, chỉ mới 7 tuổi.  Hai năm sau bố về, Hiền đã lên 9 tuổi, nghe các anh chị gọi bố, Hiền cũng gọi theo nhưng vui được vài ngày thì bắt đầu thấy sợ vì bố hay quát tháo các con, kể cả mẹ.

Từ khi trở về, bố chẳng làm gì; chỉ có mẹ một tuần 7 ngày dậy sớm khi trời chưa tỏ để đi lấy thịt về bán ở chợ Thiết để nuôi đàn con 9 đứa và một ông chồng.

Hôm nay mẹ đưa gói thịt lớn hơn mọi ngày cho chị Thoa.  Nhìn thấy gói thịt, chị Thoa trợn mắt có ý hỏi sao miếng thịt hôm nay lớn thế, có lẽ nửa ký chứ ít.  Mẹ hiểu ý nói ngay:

-Hôm nay bán ế nên còn dư nhiều.  Thôi! Con cứ kho hết cho khỏi bị hư rồi chia ra ăn nhiều ngày. 

Nói xong, mẹ đưa gói gạo cho chị Thêm đem đi cất; gói gạo hôm nay cũng nặng hơn mọi lần.  Mẹ lại giải thích:

-Có chút tiền mua gạo để dành; chỉ cần độn thêm khoai, sắn hay bo bo là có thể ăn được vài tuần.  

Nói xong, mẹ quay ra Hiền đưa tay xoa đầu và hỏi thăm:

-Hôm nay con đi học có vui không?

- Không vui!

-Sao thế?

-Thằng Hùng ngồi cạnh con không đi học hôm nay. Con nghe tụi nó nói thằng Hùng đi vượt biên rồi.

-Thế à!  Sao con biết?

-Hễ trong lớp có đứa bỏ học là chúng nó bảo thế.

-Con nhớ thằng Hùng lắm à?

-Nhớ chứ! Nó ngồi cạnh con  mà.

Anh của Hiền, là Quân hỏi mẹ:

-Đi vượt biên là đi đâu vậy mợ?

Bà Thảo trả lời con:

-Thì họ đi ra nước ngoài xum họp với người nhà đã đi trước.

Quân lại hỏi:

-Thế bác Thu đi Mỹ rồi, khi nào thì mình đi xum họp với bác Thu?

Bà Thảo ôm đứa con út đang đứng gần vào lòng, trả lời Quân:
- Khi nào có dịp thì mẹ sẽ đi thăm bác Thu, bác hay giúp đỡ nhà mình lắm.

-Khi nào mẹ đi?

-Làm sao biết được. Con không nên nói với bạn bè là mình có bác Thu ở bên Mỹ nhé.

Quân không hiểu sao mẹ hay dặn anh em mình như thế.  Nhưng Quân thấy hãnh diện vì có bác ruột đang ở Mỹ, thỉnh thoảng gửi một thùng quà về cho gia đình Quân, nhờ thế mẹ đỡ vất vả phần nào.  Vào những lúc có quà của bác gửi về, nhà mình có thêm thức ăn, Quân thấy vui lắm.

 

Trước ngày 30 tháng 4, 1975, bà Thảo làm thư ký trong Quân Tiếp Vụ.  Chồng bà là ông Quốc đang mang lon Trung Úy cũng làm ở Quân Tiếp Vụ.  Lương hai vợ chồng cộng lại cũng tạm đủ nuôi đàn con 9 đứa. 

Bà lấy chồng khi mới 18 tuổi, do bà mối giới thiệu ông Quốc với cha mẹ bà, rằng ông Quốc chỉ có hai anh em di cư vào Nam với nhau, ông lại đỗ Tú Tài toàn phần, đi sỹ quan, đeo lon Chuẩn Úy. Lấy ông thì con gái hai cụ không phải làm dâu. Đã thế, lấy sỹ quan thời đó cũng là điều hãnh diện cho gia đình.  Hơn nữa, hai cụ rất quý con rể đồng hương, cùng là dân di cư với nhau.

Bà Thảo vâng lời cha mẹ đi lấy chồng như bao người con gái thời đó, không cần phải yêu nhau trước, có người tử tế xin cưới là tốt rồi. 

Ở với nhau rồi mới biết tánh nết của nhau. Tánh ông cọc cằn, hay quát tháo, nhưng được cái không lăng nhăng, không tứ đổ tường. Tánh bà hiền lành, nhỏ nhẹ nên hay nhường chồng cho yên cửa yên nhà.  Ấy thế mà hai vợ chồng sản xuất đều đều, cứ ba năm hai đứa, có khi cách năm một đứa. Vì thế, sau 14 năm sống chung, hai vợ chồng đã cho ra 10 đứa con: 5 trai, 5 gái. Nhưng một đứa con trai đã chết từ khi còn bé vì bệnh sốt tê liệt, lúc vừa 3 tuổi.

 

Sau 30 tháng Tư, 1975. Cộng sản miền Bắc tràn vào miền Nam, bà mất việc làm, ông ở nhà vài tuần rồi bị lừa đi cải tạo.  Nhìn đàn con 9 đứa đang sức ăn, bà chới với xoay xở.  Thấy hàng xóm ai nấy đem đồ đạc trong nhà ra đường bán để có tiền ăn từ từ. Bà còn chút tiền để dành nhưng sẽ mau hết nếu không tiếp tục làm ra tiền.  Bà dặn mấy đứa lớn ở nhà giữ em để bà đi tìm người hỏi han cách nào làm ăn cho thích nghi với hoàn cảnh mới.

Cũng may, trong số mấy chị em cùng làm văn phòng với bà lúc trước, vì cùng hoàn cảnh nên ai nấy lo kiếm cách khác làm ăn.  Có người dắt bà theo ra bến xe đò miền Tây lúc còn chạng vạng tối để chờ con buôn vừa xuống xe đi bộ ra xa một khoảng đường là bu lại lấy hàng.  Họ quen mặt nhau nên mua bán nhanh chóng, không cần nói thách, chẳng kỳ kèo trả giá; mua cho nhanh, bán cho lẹ để chạy cho mau, kẻo công an đến bắt là mất hết vốn.

Các bà đem thịt heo “chui” từ miền Tây lên, dấu trong bụng, trong người ra từng bao nylon đưa cho mấy bà lấy mối, tiền trao, hàng lấy chóng vánh.  Sau đó, mấy bà buôn chui lại buộc chặt những bao thịt vừa mua được vào bụng, vào người mình rồi kéo áo che lại; vội vàng rời chỗ lấy hàng, lên xe ôm hoặc do người nhà chở về chợ của mình. 

Bà Thảo nhờ thế mà biết đường đi nước bước. Bà ra chợ Thiết gần nhà thuê trước một sạp bán thịt vì lúc này nhiều hàng thịt biến mất, họ bỏ chạy hay dọn về quê nên nhiều sạp bỏ trống.  Có được chỗ bán rồi, hôm sau bà lại theo người bạn đi lấy hàng.  Từ từ bà dạn dĩ lấy hàng, dạn dĩ bán hàng.  Bà Thảo được cái tánh nhẹ nhàng, giọng nói thủng thỉnh, dịu dàng nên khách dễ có cảm tình.  Bà cũng có một khuôn mặt khả ái, thuộc loại đẹp, khiến người ta thích nhìn. Đã thế bà không muốn nói thách làm gì, bán buôn vừa phải cho mau hết hàng để về nhà với con và được nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc.

 

Ông Quốc không phải là lính tác chiến, cũng không phải là Chiến Tranh Chính Trị nên sau khi đi học tập cải tạo gần 2 năm ông được thả về.  Về nhà thì mỗi tuần phải ra công an phường trình diện, chẳng làm ăn gì được, ông hoàn toàn sống nhờ vợ.  Những người như ông, sau khi đi cải tạo trở về đều kiếm cái xích lô để đạp hoặc may mắn có cái xe gắn máy làm nghề chạy xe ôm, nếu có cái xe đạp thì bán xe kem, hay đẩy xe ba bánh bán nước đá. Còn ông được vợ ưu ái cho ở nhà trông 9 đứa con để vợ yên chí bán buôn đem tiền về trang trải mọi thứ trong gia đình.

Từ ngày ông về, mấy đứa con trai lớn bớt chạy rông ngoài đường với bạn bè nên bà yên tâm hơn; dù sao con có cha như nhà có nóc vậy.

Thời đó xà bông tắm khan hiếm, bà phải dùng xà bông giặt quần áo pha với nước cho tan để tắm.  Nó chẳng thể nào khử hết cái mùi hôi của thịt heo mà bà buộc từng bao vào người ban sáng rồi chạy từ bến xa cảng miền Tây về chợ Thiếc.  Cho nên, ông Quốc không chịu được mùi thịt heo sống còn bám trên người bà nên ít muốn gần bà. Chuyện chăn gối vợ chồng đâm ra lạnh nhạt. Cũng có thể vì mặc cảm sống nhờ vợ, tâm lý ông không ổn định, không thoải mái nên bị “tắt điện.”

 

Bốn giờ sáng hôm sau, bà Thảo dậy như thường ngày để ra bến xe đò miền Tây.  Nhưng hôm nay bà ghé qua giường mấy đứa con lớn đứng nhìn từng đứa, rồi qua giường thằng út và mấy đứa anh nó nhìn một lúc lâu. Có đứa cựa mình, bà chỉ sợ nó thức dậy trông thấy bà đang đứng nhìn chúng. Bà muốn ôm từng đứa vào lòng mà không dám gây tiếng động. Bà nén tiếng thở dài rồi dứt khoát quay đầu ra cửa.  Đó là một ngày gần cuối năm 1979.

 

Tối hôm qua, sau khi ăn tối xong, bà đã chờ khi không có đứa nào đứng gần thì vội nhét cái bao thư nhỏ vào gối của Thoa, đứa con gái lớn. Bà hy vọng khi nào Thoa tháo áo gối ra giặt sẽ nhìn thấy cái thư của bà, trong đó bà để lại chút tiền.

 

Bà ra bến xa cảng miền Tây hôm nay với mục đích khác: Đi chui!  Bà nhờ anh xe ôm thường ngày chở đi nên trong nhà chẳng ai để ý. Bà chỉ đem theo một túi nylon nhỏ trong để một bộ quần áo. Trong cái áo đang mặc, bà để ít tiền trong túi để tiêu xài dọc đường, có gài kim băng.  Trong cái quần lót, bà may thêm một cái túi phía trong để hai tờ giấy $20 đô la Mỹ. Trong người nịt theo 2 chỉ vàng để đóng cho người ta khi đến biên giới. Đó là tất cả những gì bà có được.

Nhờ bán thịt ngoài chợ cả 4 năm nay bạn hàng ai cũng thương; nhất là thấy hoàn cảnh của bà là gia đình “Ngụy” nên họ tin cậy mách bảo cho bà đường dây vượt biên bằng đường bộ này.  Bà cảm thấy may mắn vì số tiền họ đòi chỉ có 2 chỉ, trong khả năng bà có thể lo được.

Sau khi bộ đội Việt Cộng tấn công vào Cam Bốt đầu năm 1979, đánh tan quân Khờ Me Đỏ, đám tàn quân chạy qua biên giới Thái Lan thì sau đó ít lâu làn sóng vượt biên bằng đường bộ của người Việt miền Nam tràn qua Cam Bốt khá nhiều, vì rất nhiều tổ chức khác nhau đưa người đi chui, họ kiếm tiền cách này thật dễ dàng.

 

Bà xuống xe ôm, trả tiền cho anh xong vội đi về bến xe đi An Giang để gặp người kia; họ đã lấy vé xe cho bà, bà chỉ cần đưa tiền và lấy vé để đi cho kịp, khỏi phải hồi hộp việc có mua được vé hay không.  Lên xe ngồi xuống ghế của mình bà thở phào cầu mong cho xe đi đến nơi suôn sẻ, không bị găp công an chặn xét dọc đường.

Khoảng 3 giờ chiều xe đến nơi. Mọi người bước xuống; bà kín đáo nhìn quanh tìm người hướng dẫn.  Có một phụ nữ bán khoai lang luộc đến gần chào bà giả vờ như chào hàng, hỏi nhỏ có phải bà là “Hoa giấy 2”.  Bà gật đầu, mừng quá nhưng không dám cười. Người kia đưa cho bà hai củ khoai lang luộc rồi bảo bà đi vào chợ ăn cơm cho no, nhớ ăn ở hàng cơm bình dân của bà “Được” vì chút nữa sẽ có người đến đưa đi.  Bà móc túi lấy ít tiền lẻ trả tiền hai củ khoai. Bà kia nhắc nhớ cầm theo khoai để dọc đường có cái mà ăn. Nghe thế bà mua thêm 2 củ khoai nữa.

Vào chợ, bà nhìn thấy hàng nước, hàng bánh trái lại mua thêm 2 cái bánh tét chuối, 2 cái bánh ú mặn. Bà có cầm theo 1 chai nước mà bà vẫn đem theo ra chợ mỗi ngày, nhưng đã uống gần hết. Bà định bụng vào hàng cơm sẽ xin thêm nước đổ vào.

Bà vào hàng cơm của bà Được như đã được dặn dò. Bà gọi một đĩa cơm cá kho vì rẻ tiền.  Vừa ăn bà vừa nhớ đến chồng con, có lẽ họ chưa biết bà đã ra đi thật xa.  Chiều nay trước giờ cơm tối có lẽ cả nhà sẽ nhốn nháo lên vì không thấy bà về.  Nghĩ thế bà cảm thấy bồi hồi, khó chịu.  Ăn vừa xong thì có người đàn bà vào nói nhỏ với bà đi theo cho kịp giờ.  Bà trả tiền rồi vội vã đi theo người đàn bà. 

Nơi tập trung cách xa chợ vài trăm mét, bà đã thấy vài người đứng rải rác quanh đó.  Có một người đàn ông đứng xa xa ngoắc tay ra hiệu cho mọi người theo ông ta.  Từ đó đám người lạ bước theo người đàn ông được gọi là anh Năm.  Anh Năm đi nhanh và luồn vào ngõ ngách, xa xa lại có một người xuất hiện, được anh Năm cho đi theo.  Ra khỏi khu dân cư thưa thớt, nương rẫy hiện ra, anh Năm đi trước dẫn đường vào khu rẫy, đi mỏi chân muốn dừng lại cũng không được.  Cứ thế đi cho đến lúc chiều tà thì đến gần khu rừng biên giới. 

Ở đây, một gã người Miên xuất hiện, anh Năm giao đoàn người lại cho hắn rồi chào từ biệt.  Cả đám giật mình hỏi anh Năm: “Anh bỏ tụi tôi sao?” anh Năm trả lời: “Nhiệm vụ của tôi chỉ đến đây thôi. Bây giờ đến phiên anh Kho dẫn tiếp, vì anh là người Miên nên biết đường đưa ông bà qua đó”

Thế là miễn cưỡng chia tay anh Năm, đoàn người chỉ còn biết trông vào Kho.  Kho bảo mọi người mau đi theo hắn qua đoạn rừng biên giới này.  Các bà bảo nhau xin hắn cho đi xả một chút rồi mới có thể đi tiếp, hắn đồng ý chờ.

Chân đã bắt đầu đau, có bà than biết thế tôi mang giầy bố đi cho khỏe, mang dép bây giờ đã thấy mỏi chân rồi.  Kho bảo khi qua đến Miên sẽ có xe trâu chở các bà. Nhưng bây giờ phải giữ im lặng, không được nói lớn tiếng sợ bọn lính biên giới nghe thấy, nhiều phe nên nhiều thứ lính, gặp lính phe nào cũng đáng sợ.

Cố đi cho theo kịp mọi người, vừa hồi hộp, vừa mệt mỏi, không ai dám nói lớn tiếng, chỉ nghe tiếng thì thầm khi cần phải nói.  Khi đã vào đất Miên độ hơn 1 cây số thì có khoảng 5-6 người Miên khác ra đón Kho. Họ trao đổi với nhau bằng tiếng Miên rồi chỉa súng vào mọi người ra lịnh chia hai toán: đàn ông riêng, đàn bà riêng, rồi họ bắt đi vào những bụi cây gần đó.

Đàn bà phải cởi hết quần áo ra, kể cả quần áo lót, các cô xấu hổ không dám cởi thì nó lấy báng súng đánh váo lưng, ra lệnh “Cởi mau lên”.  Đến bây giờ thì mọi người đã hiểu đang bị cướp nên răm rắp tuân theo.

Chúng lục lọi tất cả quần áo, lôi ra được bao nhiêu vàng vòng, tiền đô thì thâu tóm hết. Còn bắt các bà khom lưng xuống cho chúng lục bên trong xem có dấu chỗ kín kim cương hay vàng thẻ không.

Bà Thảo nghĩ thầm thảm nào chúng chỉ lấy 2 chỉ vàng, qua đây chúng vơ vét hết, chẳng ai còn một chỉ vàng hay một đồng đô la nào trên người. Nhưng lấy xong thì xin tha mạng cho chúng tôi đi cho trót. Bà cầu mong như thế.

Các cô khóc thút thít vì cảm thấy bị làm nhục. Chúng quát lên: “Câm miệng!” Thế là tắt ngúm tiếng khóc, chỉ còn tiếng nấc nhè nhẹ không dám thoát ra khỏi cổ.

Xong việc bóc lột, chúng lại thúc đẩy mọi người tiến bước.  Bà Thảo nhìn những người đồng hành như nói ngầm: “Chúng tiếp tục đưa mình đi thì phước lắm rồi.”

Sau 1 tiếng đi bộ, đã ra đến gần đường xe chạy.  Chúng bảo đứng chờ, khi xe hàng đến gần rồi ngừng lại.  Chúng ra dấu cho mọi người leo lên, ngồi chung với hàng hóa.  Chạy vài giờ thì xuống xe, lại núp vào các bụi cây chờ một xe khác đến đưa đi tiếp.  Mỗi lần đổi xe là mỗi lần được chui vào bụi đi xả. Ai nấy có thức ăn đem theo thì mở ra ăn cầm chừng, có nước cũng uống cầm chừng.

Sau một ngày mệt nhọc, chúng đưa đến một căn nhà trọ để ngủ qua đêm, mọi người quá mệt và quá khát, nên múc nước trong lu ra uống ngon lành. Bọn dẫn đường phát cho mỗi người một hộp cơm dù chỉ có cơm và 1 khoanh cá kho, một nắm đậu đũa sống cũng thấy ngon lành như ăn tiệc.

Họ phát vài cái chiếu cho cả đám nằm chung, sát nhau như xếp cá hộp.  Vì trong căn nhà này còn vài toán đi chui khác cũng tụ lại đây.

Cũng may, đám người Miên dẫn đường không bỏ họ mà đưa cho trót đến biên giới Thái Lan thì chia tay.

Từ biên giới, đám người đi chui phải dìu dắt nhau vượt thêm một đoạn đường rừng, rồi lần mò đến trại tị nạn.

Bà Thảo và đoàn người đi chung gần 20 người nhìn nhau cười sung sướng, cười như chưa từng cười bao giờ.

Sau những thủ tục nhập trại, bà Thảo và đám người đi chung đi kiếm chỗ ở, nghỉ ngơi qua đêm để lấy lại sức.

Hôm sau theo người đến trước ra chợ tham quan, mục đích tìm việc làm.  Ra chợ thì họ thấy đã có nhiều người Việt Nam đang làm thuê cho các tiệm ăn, tiệm chạp phô. Hỏi ra, toàn là người tị nạn, ra đây làm công để có tiền gửi về Việt Nam cho gia đình vì ở Việt Nam ai cũng trông mong người đi thoát tiếp tế cho người còn ở lại.

Bà Thảo nghe thế cũng vội vàng tìm kiếm xem có hàng quán nào cần người thì bà làm ngay. Tiếng không biết thì cứ thấy thau chén đĩa là thò tay vào đòi rửa, bà chủ xe bún mắm bò chóc cũng thông cảm gật đầu.  Thế là từ hôm đó bà Thảo có việc rửa chén, lau dọn và phụ sơ chế thức ăn.  Bà chẳng ngại lao động vất vả vì bà đã quen vất vả từ sau 30 tháng 4, 1975.

Làm ngày nào lãnh tiền công ngày đó.  Bà chủ bán thứ gì thì cho người làm công ăn thứ đó.  Ăn mãi một thứ mỗi ngày cũng ngán tận cổ, nên các bà Việt tịn nạn đang làm công ngoài chợ nghĩ ra cách trao đổi phần ăn cho nhau cho đỡ ngán. Khi bà có tiền công thì hỏi ngay cách đánh điện báo tin cho chồng con biết bà đã đến nơi an toàn.  Bà chỉ viết vỏn vẹn vài chữ “Mẹ đã gặp bác Thái”. Bà cũng đã biên thư cho chị Thu đang ở Mỹ biết bà đã vượt biên đến Thái Lan bình yên.  Chị Thu gửi ngay cho bà $40 đô để bà có tiền tiêu dùng.

Khi để dành được đủ để đóng một thùng quà gửi về, bà gửi ngay vì sợ chồng con đang đói ở nhà.  Bà ở trại tị nạn Thái Lan hơn 1 năm thì được chị Thu bảo lãnh qua Mỹ đầu năm 1981.

 

Cái ngày bà Thảo đi vượt biên, không trở về nhà. Chồng con bà chờ mãi không thấy bà về thì ông Quốc bắt hai đứa con lớn ra chợ kiếm mẹ.  Chợ đã vắng teo, chẳng còn sạp nào còn mở. Chẳng biết hỏi ai nên chúng về thưa lại với bố.  Ông Quốc tức quá quát tháo ầm ỹ, đổ hết cơn thịnh nộ lên đầu các con.  Ông chửi bà là đồ mất nết, bỏ nhà theo trai hay sao chứ!  Ông oán bà đi mà không xin phép ông, vì từ xưa đến giờ, đi đâu bà cũng phải xin phép ông. Ông cho phép thì bà mới được đi. Cả bầy con ngồi im cúi đầu chẳng dám nhìn bố. Bụng chúng đang kêu ồn ào, chỉ cầu mong ông cho phép ăn dù hôm nay mẹ không về.  Chờ cả tiếng sau, thấy cha đã thấm mệt và hết còn sức để la hét. Thoa, con gái lớn xin phép bố:
-Con xin phép cậu cho con dọn cơm cho cả nhà.  Các em, chúng nó đói lắm rồi ạ!

Ông Quốc không trả lời, chỉ lừ mắt nhìn Thoa nên Thoa hiểu ý, rút ra sau bếp gọi vài đứa em phụ dọn cơm.

Qua hôm sau, ông Quốc gọi người đến bán bộ ghế salon bằng gỗ đánh vẹc ni mầu hổ phách lúc trước mua ở đường Hồng Thập Tự khá đắt tiền.  Ông bảo với các con rằng:
-Nhà này làm gì có khách đến chơi nữa mà cần ghế cho khách ngồi. Chúng mày ngồi ăn cơm hay học bài thì ngồi ở bàn ăn là được rồi.

Các con đứng nhìn người ta khuân bộ bàn ghế đi mà buồn bã trông theo, vì đó là kỷ niệm của cả nhà. Nhưng chẳng đứa nào dám phản đối, vì biết không có mẹ, chỉ còn nước bán đồ mà tiêu xài.

Sau đó ông Quốc dò hỏi vài người ông quen để họ chỉ cách làm ăn.  Ai cũng thông cảm cảnh gà trống nuôi con của ông và nhất là sỹ quan “Ngụy” nên sẵn sàng giúp đỡ.  Họ bầy ông cái nghề thêu tranh, thêu khăn bàn.  Họ cung cấp đồ nghề, mẫu mã và đến tận nhà chỉ cho các con ông. Từ đứa lớn đến đứa bé, dù trai hay gái, hễ cầm được cây kim, sỏ được sợi chỉ là ông bắt làm việc hết cả bầy.  Cái khoảng trống trong phòng khách do thiếu vắng bộ ghế salon thì được trưng dụng làm chỗ để bốn, năm cái khung thêu.

Thế là, ngoài giờ học, các con ông phải thêu tranh, thêu khăn bàn, chúng nghe lời ông răm rắp, trai gái gì cũng phải thêu để kiếm tiền.

Các con ông Quốc rất nể tài xoay sở làm ăn của ông. Ông làm ăn rất tín nhiệm với khách, họ dám giao hàng cho ông dù ông không có tiền vốn đưa trước để lấy vật liệu.  Nhờ tính liêm khiết, giữ chữ tín nên ông Quốc tạo được việc làm cho các con và mấy bố con có thể duy trì cuộc sống sau khi vợ ông đã bỏ đi.

Nhưng bà Thảo đâu có bỏ chồng con đói khát.  Vừa đến trại tị nạn Thái Lan, bà đã lo kiếm việc làm để tiếp tế nuôi chồng và một bầy con 9 đứa. Tháng nào bà Thảo cũng gửi một thùng hàng về tiếp tế cho chồng con. Đến năm 1981, bà Thảo được chị gái bảo lãnh đi Mỹ.

Chị bà Thảo đang làm chủ một nhà hàng Việt Nam, bán đủ thứ món nên cho ngay bà Thảo một chân phụ bếp. Chị Thu khuyến khích bà:

-Dì chịu khó học việc, từ từ lên bếp chánh thì bớt vất vả. Vài năm nữa bảo lãnh chồng con qua thì có thể mua nhà cho cả nhà ở.  Vì nhà dì đến 11 người thì chẳng thuê được apartment, dì cũng chẳng có tiền thuê nổi cả một căn nhà.

Bà Thảo lại nai lưng làm việc, tháng tháng lại gửi một thùng quà về tiếp tế cho chồng con.  Khi biết được chồng con bà có việc làm tại gia, có thu nhập để mua thức ăn mỗi tháng thì bà không gửi thùng quà mỗi tháng nữa, mà gửi 2 tháng một thùng. Phần tiền còn lại bà để dành để mua nhà.

Bà Thảo được anh rể dạy lái xe.  Nhưng dù thi đậu, có bằng lái mà bà chẳng dám tự lái xe.  Vì thế, bà vẫn theo xe chị Thu đi làm mỗi ngày vì vẫn còn ở chung nhà với chị. Bà chỉ trả tiền phòng cho chị Thu, ăn uống thì bà ăn ở tiệm ngày 3 bữa với thợ nên tiết kiệm được nhiều. 

Sau ba năm ở Mỹ, bà bắt đầu nộp đơn bảo lãnh cho chồng con.  Mãi đến năm 1991 chồng và 6 đứa con bà Thảo mới được qua Mỹ.  Ba đứa con lớn vì đã có gia đình nên đến năm 1993 mới được bảo lãnh qua sau.

Bà Thảo vui vẻ ra mặt sau 12 năm xa cách chồng con.  Giờ đây căn nhà single house hai tầng tràn ngập tiếng nói, tiếng cười.  Các con bà phấn chấn với cuộc sống mới. Ba đứa nhỏ nhất qua đây khi đã 19, 21 và 23 tuổi thì xin vào NOVA để học, mấy đứa lớn thì đi học nghề vì chúng đã bỏ học từ lâu, chẳng có căn bản để học tiếp.  Đối với bà, chúng nó có cơ hội học nghề để tự sinh sống ở nước Mỹ là bà yên tâm rồi.

Thế nhưng ông Quốc chồng bà vẫn để tâm thù bà vì ra đi không xin phép ông. Ông nhất định không nói chuyện với bà, không ở chung phòng với bà, xem như hai người hoàn toàn ly thân dù vẫn ở chung nhà. Nhưng bà vẫn không yên thân với ông, hở ra là ông mở miệng đay nghiến bà, bà phải im lặng lánh xa ông. Sau vài năm, ông Quốc nộp đơn xin ly dị vợ dù vẫn ở trong nhà của bà.  Bà vẫn đi làm mỗi ngày đem tiền về lo trả tiền nhà, tiền điện nước, điện thoại và cả tiền chợ.  Khi mấy đứa lớn có việc làm thì phụ mẹ trả tiền điện nước, điện thoại và tiền chợ. Nhưng từ từ chúng có gia đình và dọn ra riêng, bà vẫn là người trang trải mọi thứ trong nhà.

Cho đến khi ông Quốc đủ tuổi xin nhà trợ cấp cho người nghèo, ông nộp đơn ngay.  Khi nhận được nhà, ông dọn ra.  Bà cũng đã đến tuổi nghỉ hưu, bà bán nhà và dọn đi California theo hai đứa con lớn đã dọn qua đó vài năm trước.

Qua California, bà ở nhà giữ cháu ngoại, cháu nội giúp hai con lo buôn bán ở nhà hàng do chúng tự mở. Khi các cháu đã lớn, không cần bà giữ nữa thì cũng là lúc cơ thể bà đã mệt mỏi, phát bệnh của người già. Con bà nộp đơn cho bà vào nhà già ở chung với các ông bà lão người Việt cho vui. 

Nhờ ở nhà già có nhiều người Việt Nam bà quen được một ông bạn già hơn bà vài tuổi, là ông Khang. Ông Khang lúc trước là sỹ quan cấp tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ông qua đây theo diện HO. Sau vài năm qua Mỹ, vợ bỏ ông.  Bà Thảo đoán có lẽ ông cũng từng làm khổ vợ nhiều năm nên bây giờ bà có cơ hội bung ra thì đi ngay. Nghĩ thế nhưng bà không cần hỏi. Chỉ biệt hiện tại ông Khang rất tốt với bà, khi bà cần đi đâu, ông lái xe chở bà đi ngay. Hai người lại nói chuyện tâm đắc với nhau lắm. Cuối tuần nào ông cũng chở bà ra ngoài ăn tiệm rồi đi chợ. Bà và ông vẫn ở hai người hai căn apartment trong cùng khu, nhưng ngày nào ông cũng qua nhà bà ăn chung ba bữa cơm vì ông giao hết tiền chợ cho bà.

Riêng ông Quốc, sau khi vào nhà già nhiều năm, ông đã qua đời vì tuổi già. 

 

Nhưng rồi tai họa ập xuống, bà bị tai biến mạch máu não. Đưa vào cấp cứu thì cứu sống được nhưng bà phải ngồi xe lăn vĩnh viễn.  Khi bà trở lại căn apartment của bà, ông Khang ngày nào cũng qua săn sóc bà, đẩy xe lăn cho bà ra ngoài phơi nắng mỗi ngày. Nhưng bản thân ông Khang cũng có vài bệnh già.  Các con bà ở Virginia quyết định đem bà về Virigina để có thể săn sóc bà.  Tại Virginia, bà vẫn xin được chương trình Long Term Care nên có người đến săn sóc bà mỗi ngày 8 tiếng, tuần 7 ngày.

Ngày nào bà và ông Khang cũng gọi cho nhau, ông Khang cứ nhắc bà trở lại California để bầu bạn tuổi già với ông vì cả hai người biết rằng họ chẳng còn sống bao lâu nữa.

Bà Thảo lại năn nỉ các con mua vé máy bay cho bà trở lại Cali. Các con dù rất thông cảm với nỗi cô đơn của mẹ nhưng phải khuyên bà rằng:
-Bác Khang cũng đau yếu nhiều, bác bị tiểu đường nặng, bản thân bác cũng phải cần người giúp, làm sao bác lo được cho mợ?  Thôi mợ với bác Khang gọi nhau mỗi ngày nói chuyện cũng được rồi.

Một hôm, bà Thảo thấy nhức đầu, buồn nôn, bà nôn thốc tháo ra nhà; người săn sóc gọi cho con gái bà báo tin, thì con gái trả lời đang bận có khách vì tiệm đang đông khách.  Bà Thảo lại nôn thêm vài lần nữa. Đến gần 8 giờ tối, khi con gái về, con trai từ nhà khác đến thăm, thấy bà kêu nhức đầu quá, bà lại nôn thốc tháo ra nhà.  Lúc này các con bà mới gọi xe cứu thương đến, xe đến ngay trong vòng 10 phút đưa bà đi. Đến nhà thương thì người ta phát hiện ra bà đã bị tai biến mạch máu não, họ gọi trực thăng đưa bà qua nhà thương Fairfax. Nhưng qua chiều hôm sau thì bà tắt hơi.

Chuông điện thoại ở cái cell phone của bà lại reo lên. Con trai bà nhận ra số phone của ông Khang nên bắt lên trả lời:
-Thưa bác, mợ cháu vừa mất chiều nay.  Cháu cũng đang tính gọi cho bác báo tin nhưng bác đã gọi qua.

Có tiếng ông Khang bật khóc bên đầu dây bên kia.

Có lẽ suốt cuộc đời làm vợ ông Quốc, bà Thảo chưa bao giờ thật sự có hạnh phúc, nhưng bà an phận làm vợ, làm mẹ, không so đo phân bì với những người đàn bà may mắn hơn bà. Có lẽ thời của bà, phụ nữ chẳng dám đòi hỏi có hạnh phúc, được chồng tôn trọng hay săn sóc, quan tâm, nên bà thấy bình thường khi có ông chồng cọc cằn hay quát tháo, hay gia trưởng. Cho đến cuối đời, bà gặp được ông Khang, người luôn tôn trọng bà, săn sóc bà, nói năng nhỏ nhẹ với bà, thì bà mới biết được hạnh phúc của người được thương yêu là thế nào.  Bà tự an ủi dù trễ, nhưng vẫn còn hơn không bao giờ biết được hạnh phúc là gì.  

Bà Thảo qua đời ở tuổi 81, đem theo một tình yêu muộn màng nhưng thật đẹp.

 

TT-Thái An

7/18/2021