Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

529 NGUYỄN BÍCH DUYÊN : Phát biểu trong buổi ra mắt sách Viết Bên Dòng Potomac


NGUYỄN BÍCH DUYÊN:
Phát biểu trong buổi ra mắt sách 
 "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC" Ngày 16 tháng 8 năm 2025.

Kính thưa quý vị quan khách. Tôi là Nguyễn Bích Duyên, Tôi không phải l2 người cầm bút, cũng không phải là một tác giả trong tác phẩm Viết bên dòng Potomac mà quý vị đang cầm trên tay. Tôi chỉ là một dộc giả, một người thưởng ngoạn, thích đọc sách, nghe nhạc. Tôi hiện đang phụ trách chương trình Tình Ca Chọn Lọc của Đài Phát Thanh Việt Nam hải Ngoại và Đài Phát Thanh Hoa Thịnh Đốn. Chương trình giới thiệu những bài thơ, bài nhạc bất tử và bất hủ với đời sống sóng gió, buồn vui , đắng cay  và hạnh phúc, để nhắc nhớ chúng ta những kỷ niệm hoa buốm ngày xưa, của một thời để yêu và một thời để nhớ. Năm mươi năm qua, sống và hoạt động trong các lãnh vực văn học nghệ thuật vùng Hoa Thịnh Đốn. Tôi quen biết với rất nhiều tác giả có mặt trong tập sách sách này.Khi phụ trách chương trình này, rất nhiều thính giả từ xa gọi vào để yêu cầu những nhạc phẩm mà họ yêu thích, nói lên tâm trạng của người việt xa xứ. Họ đã sông ở một nơi nào đó, xa quê hương, có thể nửa vòng trái đất như Na Uy, Thụy Điển, Anh, Pháp… Họ đã phải thức khuya đến  hai ba giờ sáng để nghe chương trình Tình Ca Chọn Lọc của chúng tôi.Sau đây là một đoạn trong bài thơ cũa Giang Hữu Tuyên được Nhạc sĩ Bác Sĩ văn Sơn Trường phổ nhạc mà được nhiều thính giả gọi về yêu cầu :

Trái Mồng Tơi ngày xưa mầu tím
Canh Mùng Tơi mẹ nấu cả nhà ăn
Con lớn lên con đi làm lính
Giữ xóm giữ làng giữ dậu Mồng Tơi.
Mỗi chiều buồn lần mò ra dàn mồng tơi cũ
Mắt mẹ buồn vì thương nhớ đứa con xa.

Người con đi về đâu mà mẹ không được  biết??.. Bài thơ thật giản dị, đau thương mang tâm trạng u uất của rất nhiều người Việt xa xứ.

Tôi xin cảm ơn Nhà thơ Giang Hữu Tuyên Nhạc sĩ Văn Sơn Trường đã diễn tả được hết nỗi niềm trong lời thơ  và nét nhạc.

Tác phẩm Viết Bên Dòng Potomac còn có rất nhiều những chuyện thật, và rất buồn như “ Câu Chuyện Một Người Vợ Tù Cải Tạo” của nhà văn Trần Thị Thanh Minh, hay hồi ký “Đổi Kiếp” của  Nhà văn Hồng Thủy  tôi đã đọc và rưng rưng cảm xúc, và còn nhiều nữa mà thời gian không cho phép để kể hết ra.

Về Thơ, tôi có cơ hội được đọc lại những bài thơ rất hay và từng quen thuộc của Lê Thị Ý, Lê Thị Nhị, Bạch Cúc, Vương Đức Lệ, Viên Linh, Phạm Cao Hoàng. Hà Bỉnh Trung. Và nhiều thi sĩ khác tôi hằng mến mộ.

Tôi rất trân trọng và yêu quý tác phẩm Viết Bên Dòng Potomac,  đã tổng hợp dược gần như đầy đủ các tác giả dù đã mất hay đang tồn tại với đầy đủ Tiểu sử, Chân dung và tác phẩm tiêu biểu của những tác giả đã từng sống và viết bên dòng sông lịch sử này. Đây là một một công trình văn hóa lớn  cho dịp tưởng nhớ  Năm Mươi Xa Xứ của các tác giả người Việt vùng lưu vực dòng sông này.

Cuốn sách hay và xứng đáng được lưu giữ trong tủ sách gia đình của chúng ta, làm di sản cho con cháu đời sau.

Tôi xin gửi tới Nhà văn Nguyễn Minh Nữu và Ban Biên tập là những người thực hiện sách và ban tổ chức đã bỏ ra rất nhiều công sức để thực hiện một tác phẩm giá trị lời cám ơn nồng nhiệt.

Xin kính chúc quý vị quan khách thật nhiều bình an, vui vẻ và hạnh phúc.

 Nguyễn Bích Duyên.

 

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2025

Giới thiệu sách mới: VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC 1975-2025 - NXB Văn Phong - Tháng 8.2025.



Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng do Tạp chí Văn Phong (Virginia) thực hiện nhân kỷ niệm 50 năm sống đời viễn xứ.  Sách dày 810 trang, được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac. (Sông Potomac dài 652 km, bắt nguồn từ tiểu bang West Virginia, chảy ngang qua thủ đô Washington, D.C., tiểu bang Virginia và tiểu bang Maryland. Khoảng 6 triệu người đang sống bên dòng sông Potomac, trong đó có khoảng 120 ngàn người Việt).

Đây không phải là một tuyển tập. Chỉ là một tập hợp những khuôn măt văn nghệ trong vùng được lưu giữ như một ghi nhận những đóng góp trên lĩnh vực văn học nghệ thuật của các tác giả trong cuốn sách. Góp mặt vào cuốn sách còn có 12 tác giả ở Hòa Lan, Pháp, Canada và ở các tiểu bang Texas, California, New Jersey, Ohio và Michigan.

Bài vở gồm thơ, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, bút ký, biên khảo, nhận định và dịch thuật.

Về hội họa, có 28 tác giả có chân dung do các họa sĩ vẽ. Ngoài ra, còn có các phụ bản và tranh minh họa của các họa sĩ Võ Đình, Ngọc Dũng, Đinh Cường, Trương Vũ, Nguyễn Trọng Khôi, Đinh Hoàng Oanh, Quốc Vũ,  Đinh Trường Chinh.

Về bộ môn nhạc, tất cả các sheet nhạc và các bài thơ (trong sách) đã được phổ nhạc đều có cài mã QR code. Người đọc có thể nghe các bản nhạc bằng cách mở chế độ camera trên điện thoại và quét vào mã QR code đó.

Các bài viết trong cuốn sách xoay quanh các chủ đề sau:

1.          Vượt biên tìm tự do.

2.          Sông Potomac và lịch sử Hoa Kỳ.

3.          Đời sống người Việt tha phương.

4.          Tình cảm gia đình – Nỗi nhớ quê hương.

Trước hết, chúng ta đi vào phần 1: Vượt biên tìm tự do.

Chuyện vượt biên tìm tự do của người Việt Nam sau 1975 là một trong những câu chuyện bi thảm nhất trong lịch sử loài người. Hàng trăm ngàn người Việt đã vùi thây trong lòng đại đương khi vượt biển. Nhà văn kiêm họa sĩ Trương Vũ (Hiện đang sống ở Vienna, Virginia) là một trong những người Việt Nam đầu tiên mạo hiểm dùng một chiếc thuyền rất nhỏ vượt biển đến Philippines vào năm 1976. Ông đã kể lại câu chuyện của mình trong bài “Đêm Đại Dương”:

“Cách đây 49 năm, tôi rời Việt Nam trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, cùng với bốn bạn đồng hành khác. Chúng tôi thay phiên nhau lái ghe, từ Nha Trang vượt đại dương nhắm hướng Manila, Phi Luật Tân. Không một ai trong chúng tôi có kinh nghiệm hay hiểu biết về hải hành. Một đêm, không trăng, sóng lớn, đang lái ghe tôi chợt nhớ đến một bài thơ của Victor Hugo, bài Oceano Nox (Đêm Đại Dương), mở đầu bằng những câu tạm dịch như thế này: "Có biết bao thủy thủ, có biết bao thuyền trưởng, vui vẻ hăm hở lao mình vào các chuyến viễn du, có biết bao nhiêu người trong số đó, do định mệnh nghiệt ngã, mất hút theo chân trời mờ nhạt, tan biến vào lòng đại dương không đáy, trong một đêm không trăng..."  Khi còn đi học, nét bi hùng của bài thơ gây cho tôi nhiều xúc động. Vào lúc này, chơi vơi trên biển cả, không là thủy thủ, không là thuyền trưởng, trong lo sợ, trong sự cảm nhận sâu sắc thân phận nhỏ nhoi mong manh của mình giữa đại dương bao la, tôi càng xúc động hơn. May mắn, chúng tôi đến được Manila an toàn. Ghe chúng tôi là một trong những chiếc đầu tiên đến được Manila sau 1975… Năm mươi năm đã trôi qua từ ngày chiến tranh chấm dứt trên quê hương. Hồi tưởng lại thảm kịch đó để thắp một nén nhang cho những người đã khuất, để nguyện cầu sự siêu thoát cho những oan hồn trên biển Đông. Và, cũng là lúc để mỗi người Việt Nam tự chiêm nghiệm về chính mình, về những gì đã làm, những gì đã không làm, những gì lẽ ra không nên làm. Quan trọng hơn hết, để thực sự dấn mình vào những nỗ lực của cá nhân và tập thể cần phải có cho thế hệ này, và cho những thế hệ kế tiếp. Để xã hội nhân bản hơn, tôn trọng những quyền căn bản của con người hơn, và để người dân có tự do, có cơ hội sống một đời có phẩm cách, như trong bao nhiêu quốc gia tiến bộ khác. Chỉ có như thế, cái thảm kịch như từng xảy ra trên biển Đông sau 1975 sẽ không còn xảy ra cho dân tộc Việt Nam trong tương lai nữa”.

Trong những người vượt biên tìm đến vùng đất này, có một trường hợp rất đặc biệt. Đó là nhà thơ Trần Anh Chương (Hiện đang sống ở Maryland). Ông vượt biên không phải từ Việt Nam, mà từ Tiệp Khắc.  Trần Anh Chương là người Huế, sang Tiệp Khắc du học vào năm 1980. Năm 1989, khi chế độ Cộng sản Tiệp Khắc chưa sụp đổ, ông vượt biên bằng đường bộ, từ Tiệp Khắc băng rừng vượt núi đến được nước Ý. Sau đó, sang Canada và cuối cùng đến Mỹ định cư tại Maryland. Hiện nay, ông là Tiến sĩ Vật Lý, làm việc trong ngành bán dẫn. Ông có 3 bài thơ được in trong cuốn sách này. Một trong ba bài thơ đó có tựa đề là TỰ DO. 

TỰ DO
 
Lúc anh mười tám tuổi
Tự Do là điều xa lạ
Anh sống trong căn nhà đầy bóng tối
Anh đi qua những con đường đá
Còn vương vệt máu và nỗi đau: Praha, Budapest, Warszawa
 
Những mùa đông ảm đạm
Qua những quảng trường anh hùng
Đầy bóng hình  những tay đao phủ
Nhiều đêm anh mất ngủ
Vượt biên, lưu đày, ngục tù anh sợ
Nhưng Tự Do, hãy cho anh khóc bằng mắt em
Làm anh sống
Làm anh nhớ
Những ngày đáng sống
Những bông tuyết rơi
Những cuộc đời tơi tả
Tự Do đem cho anh những người xa lạ
Bỗng thành anh em bè bạn trong nhà
Nỗi đau làm anh thành người tử tế
Và như thế anh  đi vào đời
Để yêu em! Tự Do
 

Chủ đề thứ hai của cuốn sách là  Sông Potomac và lịch sử Hoa Kỳ.  

George Washington, người sáng lập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đã được sinh ra và lớn lên bên dòng sông Potomac. Những cơ quan quyền lực nhất của nước Mỹ như Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện, Tòa Bạch Ốc đều năm bên dòng sông này.

Nhà báo kỳ cựu Đinh Từ Thức đã dành cho cuốn sách này một bài viết nói về sự hình thành Tòa Bạch Ốc và sự thay đổi các vị Tổng Thống qua các mốc thời gian quan trọng. Bài viết có nhắc đến vụ Watergate khiến Tổng Thống Nixon phải từ chức vào năm 1974 và vụ Tổng Thống Clinton bồ bịch với cô thư ký tập sự Lewinsky. Bài viết cho chúng ta biết những vị Tổng Thống nào có công lao trong việc xây dựng đất nước, những Tổng Thống nào dính bê bối trong lúc tại vị ở Tòa Bạch Ốc.

Trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, Potomac từng là ranh giới giữa miền Bắc và miền Nam, giống như sông Bến Hải của Việt Nam sau 1954.  Sông Potomac đóng vai trò chiến lược trong các trận đánh và di chuyển quân. Bài “Kể chuyện những dòng sông” của nhà văn Lê Đức Luận sẽ giúp chúng ta biết những điều rất thú vị về dòng sông này và cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Và đây là trích đoạn từ bài viết của Lê Đức Luận:

“Sông Potomac là một chứng nhân lịch sử - từng in dấu chân của những Tổ Phụ lập quốc Hoa Kỳ. Nước của dòng sông này đã từng hòa với máu của những anh hùng trong cuộc chiến giành độc lập từ đế quốc Anh để đất nước Hoa Kỳ có ngày Độc lập: July 4, 1776. Và nó cũng từng là lằn ranh sinh tử cuả những người lính Bắc- Nam trong cuộc nội chiến (1861- 1865).

Đôi khi tôi đọc những sử liệu viết về cách giải quyết chiến tranh và các vấn đề hậu chiến trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ giữa những người quân tử - chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng mang tính nhân văn, làm tôi ngưỡng mộ.

“Khi tướng Robert Edward Lee, Tư lệnh Liên quân miền Nam quyết định đầu hàng, ông viết lá thư riêng gởi cho tướng Grant, Tư lệnh Liên quân miền Bắc, yêu cầu thu xếp cuộc họp mặt. Tướng Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết cơn bệnh nhức đầu kinh niên đã hành hạ ông.

Trưa ngày 9 tháng 4 năm 1865, tướng Lee cùng một đại tá tùy viên cỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến điểm hẹn tại làng Appomattox Court House, Virginia. Tướng Lee đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón.

Vị Tư lệnh miền Bắc thắng trận đã ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được vô lễ với vị tướng Tư lệnh miền Nam bại trận. Và khi hay tin miền Nam đầu hàng, quân sĩ miền Bắc định bắn đại bác chào mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay và huấn thị: “Chiến tranh đã kết thúc, giờ đây họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không nên reo mừng trên nỗi đau khổ của họ. Hai bên không còn là kẻ thù.”

Tướng Grant lấy bút viết các điều thỏa ước: “Quân lính miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng; không bị coi là phản quốc và được trở về nguyên quán sinh sống như ngưòi dân bình thường.”

Tướng Grant trao cho tướng Lee xem điều thỏa ước. Mặt tướng Lee tươi hẳn lên và phát biểu: “ Như vậy là tốt cho mọi người, nhưng đề nghị   thêm hai yêu cầu:

1. Cho phép binh lính miền Nam mang lừa, ngựa về để sử dụng trong nông trại vì đây là tài sản riêng của họ đã mang theo khi gia nhập quân đội.

2. Xin cung cấp lương thực cho hơn một ngàn tù binh miền Bắc tôi đang giam giữ và các binh sĩ của tôi cũng đang đói.”

Tướng Grant đồng ý ngay và ra lệnh xuất 25 ngàn khẩu phần ăn. Tướng Grant hỏi: “Như vậy đủ chưa?” Tướng Lee trả lời: “Thưa Đại tướng, như thế là quá đủ.”

Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp. Bên ngoài các sĩ quan, binh sĩ miền Bắc đứng nghiêm đưa tay chào kính cẩn.

Sau này,  khi nói đến cuộc nội chiến Hoa Kỳ và bản thỏa ước chấm dứt chiến tranh người ta thường bảo: “Văn bản đầu hàng là một thỏa hiệp của những người quân tử - The Gentlement’s Agreement”

Đây là niềm hãnh diện cho con dân Hoa Kỳ mỗi khi nhắc nhớ đến cách hành xử của cha ông họ trong cuộc nội chiến và là bài học cho hậu thế cách làm người văn minh, quân tử”.

Bây giờ chúng ta bước sang chủ đề thứ ba: Đời sống của người Việt tha phương..

Trong số 86 tác giả, chỉ có 2 người định cư tại vùng đất này trước 1975. Đó là nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Dung và nhạc sĩ Khê Kinh Kha. Phần lớn các tác giả còn lại đến đây bằng con đường di tản 30 tháng 4.1975 hoặc qua đường vượt biên.

Bỏ lại đằng sau tất cả, họ bắt đầu cuộc sống tha phương với hai bàn tay trắng, với những khó khăn về ngôn ngữ và những khó khăn về hội nhập văn hóa. Họ làm bất cứ công việc gì để có tiền trang trải cho cuộc sống. Nhiều người chịu khó học hành để có được công việc tốt hơn. Nói chung, ở quê người mọi thứ không dễ dàng nhưng rồi mọi người cũng quen dần, từng bước vượt qua những khó khăn và tạo dựng cuộc sống mới. Chúng ta cùng đọc một đoạn văn vui của nhà văn Hồng Thủy nói về cuộc sống của bà và chồng là Đại Tá Bùi Cửu Viên trong thời gian đầu ở Mỹ:

Nhờ có bà dì ruột đã ở sẵn bên Mỹ vì chồng bà làm cho tòa Đại Sứ VN ở Washington DC, chúng tôi được trưởng nam của bà là Nguyễn Hoàng Diệu có quốc tịch Mỹ bảo lãnh gia đình và cho chúng tôi được tá túc trong nhà bà trong thời gian đầu khi mới đặt chân lên đất Mỹ. Hai vợ chồng, 4 đứa con ở chung trong một phòng dưới basement nhà bà. Tuy chật chội nhưng ấm cúng tình gia đình, nên chúng tôi rất vui mừng.

Ban ngày 2 vợ chồng lo đi lao động. Vợ đi làm bồi cho một coffee shop. Chồng làm cashier cho một tiệm ăn Hy Lạp. Cả 2 vợ chồng về đến nhà là mệt nhoài, lo cho 4 đứa con và cũng phải phụ lo cơm nước với bà dì. Tối đến vợ chồng con cái 6 mạng chui vào phòng ngủ chung, “làm ăn” gì nổi cơ chứ, và “làm ăn” cách nào, khi 4 đứa con với 8 con mắt tinh như ma ở xung quanh trong 1 cái phòng chả rộng rãi gì cho lắm. Lúc đó chúng tôi còn trẻ, vợ 34 tuổi, chồng mới có 43. Vậy mà cuộc sống bận rộn khiến chúng tôi chả nghĩ gì đến những chuyện “trần tục” đó, và quả thật cũng không thấy cần thiết nữa.

Sau khi dành dụm được 1 số tiền nhỏ, chúng tôi mới dọn ra riêng. Chồng tôi là một người cha thương con và lo cho con vô cùng. Cả 2 vợ chồng tôi đều coi việc lo cho các con là ưu tiên số 1. Hồi ở VN, cả 4 đứa con tôi đều học đàn piano. Cuộc di tản làm việc học đàn của các cháu gián đoạn gần hai năm trời.  Sửa soạn ra ở riêng, chồng tôi nghĩ ngay đến việc phải cho các cháu được tiếp tục học đàn vì gián đoạn lâu quá sợ các cháu sẽ quên hết. Vì việc học đàn của các con, chúng tôi phải thuê nhà riêng để ở thay vì có thể ở apartment, mỗi tháng tiền thuê rẻ bằng nửa tiền thuê nhà, nhưng họ không cho phép đánh đàn vì sợ ồn làm phiền hàng xóm”.

Song song với đời sống vật chất ngày càng khá hơn, nhiều tờ báo Việt ngữ ra đời để phục vụ đời sống tinh thần của bà con người Việt. Chuyện làm báo cũng gian nan vất vả, nhiều tờ báo ra đời chỉ được một thời gian ngắn đã phải đóng cửa. Tờ báo Việt Chiến của Giang Hữu Tuyện, Ngô Vương Toại và Nguyễn Đình Hùng là một trong những tờ báo Việt ngữ đầu tiên đến với người đọc.  Chúng ta cùng đọc bài thơ “Trời mưa đi phát báo” của Giang Hữu Tuyên để nhớ lại những ngày đầu người làm báo phải gian khổ như thế nào.

TRỜI MƯA ĐI PHÁT BÁO

Chiều ngã năm đường năm bẩy ngã
Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi
Bao mùa mưa đã im giông bão
Sao nước trường giang vẫn khứ hồi

Mười mấy năm làm tên phát báo
Lòng buồn theo thành quách xa xưa
Những trang tin dội từ quá khứ
Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa

Mưa lót ngót, đời loi ngoi mãi
Sáng chưa đi, chiều lại mưa về
Mưa ngã năm từ năm bẩy ngã
Ngã nào cũng mưa và mưa thôi

Xấp báo trên tay vừa ướt hết
Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay
Hình như những mùa mưa thuở trước
Đang về làm ướt trái tim ai. 
*

Xoay quanh chuyện làm báo, nhà văn Nguyễn Minh Nữu đã kể lại câu chuyện rất thú vị khi ông bắt đầu làm báo:

“Một kỷ niệm sẽ không quên được về làm báo. Đó là thời điểm chuẩn bị để xuất bản. Một số bạn bè trong vùng chân tình khuyên nhủ là suy nghĩ lại. Làm báo là con đường dễ chết, vì thiếu bài, vì thiếu người, vì không đủ tài chính nuôi tờ báo và còn vì sự đánh phá từ nhiều phía như bạn cùng nghề, các thế lực chính trị không cùng quan điểm, vì... và vì... Sau đó, một buổi gặp gỡ với bạn bè, tất cả các câu hỏi về năng lực, về ý tưởng, lòng kỳ vọng, mọi người đều khuyên nên nghĩ lại. Khi quay về nhà, một mình trong đêm vắng, trằn trọc suy nghĩ và quyết định. Tự nhiên chợt nhớ đến một trận đánh trong truyện Tây Hán Chí. Trận đánh giữa quân của Tây Sở Bá Vương Hạng Võ và Phá Sở Nguyên Nhung Hàn Tín.

Trận đánh quyết liệt đó, Hàn Tín lập một trận thế kỳ lạ ngược hoàn toàn với các binh pháp cổ xưa, đó là đằng sau thế trận là một bờ sông lớn, nghĩa là tạo cho quân sĩ một tâm thế chỉ có một đường là đánh chứ không có đường lui.  Tự xét về hoàn cảnh thực tế của mình, và nóng bỏng khao khát muốn được sống và làm việc bằng khả năng mà mình còn có được giữa xứ người, tôi bật dậy, dùng bút đen nét lớn viết trên bức tường ngay trước mặt bàn làm việc của mình ba chữ thật lớn: BỐI THỦY TRẬN. Vâng, đó là một trận thế mà sau lưng không có đường rút chạy.”

Ở chủ đề thứ ba này, một số tác giả viết về cuộc sống gia đình, về việc nuôi dạy con cái ở quê người. Câu chuyện “Thiên Thần Gãy Cánh” của Cung Thị Lan là một câu chuyện cảm động với thông điệp: “Hãy ngay lập tức cứu các em trước khi các em ngã gục!”“Xin hãy chia sẻ nỗi buồn của mình với cha mẹ với ghi nhớ: Cha mẹ lúc nào cũng thương yêu các con!” Tác giả kể lại chuyện mình la mắng đứa con và kết quả như sau:

Tôi lại xuống bếp rồi lên phòng ăn đem thêm những món cuối. Khi ngồi vào bàn, tôi không thấy thằng bé vừa bị la, gọi nó ra ăn cơm thì chồng tôi bảo nó vừa ra khỏi nhà, không biết đi đâu rồi. Tôi thảng thốt, nhớ lại những lời mình vừa càu nhàu. Linh tính chuyện gì không ổn, tôi lấy chìa khóa xe rồi tuôn ra khỏi nhà ngay. Trời lúc này tối đen. Ba con đường vắng ở góc nhà chúng tôi heo hắt những ánh đèn đường buồn bã. Không một người nào trên đường bộ hành và cũng không có chiếc xe nào qua lại trên những con đường nhựa. Tôi không biết tìm thằng bé hướng nào, rồ máy, tôi đạp ga trên những con đường thường đi làm theo quán tính. Đến một con đường hẹp tối đen, tôi bỗng giật mình, hãm tốc độ vì một bóng người trong y phục tối sẫm đang đi giữa đường. Bấm còi người ấy cũng không chịu bước vào lề. Tôi chiếu đèn soi rõ, nhận ra người ấy là con mình. Tôi dừng xe, bấm còi rồi kéo kính xe xuống, gọi tên nó. Thằng bé giật mình, dừng bước, đứng im nhưng không quay lại. Tôi gọi tên nó, bảo nó hãy lên xe. Nó quay lại nhìn xe tôi, ngần ngừ một lúc rất lâu rồi từ từ bước đến xe tôi. Đợi nó lên xe xong, tôi không nói gì, chở nó đi vòng vòng những con đường trong xóm. Xe chạy lòng vòng trên những con đường tối và vắng khoảng hơn mười lăm phút mà chúng tôi không ai nói với ai lời nào. Khi tôi lái xe vòng về nhà.”

Chủ đề thứ tư trong cuốn sách là “Tình cảm gia đình và Nỗi nhớ quê hương”.  Phảng phất trong mỗi bài viết là nỗi nhớ về một quê hương đã mịt mù bên kia nửa vòng trái đất. Thương cha, nhớ mẹ, thương anh, thương chị, nhớ em. Căn nhà xưa. Góc phố cũ. Tất cả chỉ còn trong hoài niệm. Truyền thống của người Việt là hiếu thảo với cha mẹ. Mỗi đêm con thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con. Trong chiến tranh, nhiều gia đình ly tán. Sau chiến tranh, tiếp tục những cuộc chia lìa.  Lưu lạc ở quê người, con cái không thể ở gần cha mẹ để chăm sóc. Bài thơ “Mẹ ơi, vĩnh biệt” của Lãm Thúy là tiếng khóc của người con khi nghe tin mẹ hấp hối, vội vàng về Việt Nam nhưng khi đến nơi thì mẹ đã nhắm mắt xuôi tay.

Mẹ ơi, con về không kịp
Giấc dài mẹ đã hôn mê
Đôi mắt thân yêu đã khép
Mẹ đâu hay biết con về!
 
Con đi đầu non, cuối bể
Mấy mươi năm, mẹ vẫn chờ
Giờ sao lạnh lùng quá thể
Gọi hoài, mẹ vẫn trơ trơ!
 
Mẹ ơi, lòng đau như cắt
Chuyến phà đêm chở xác về
Có một tinh cầu vừa tắt
Lạnh lùng sông chảy dòng khuya…
 
Sáng nay, người ta khâm liệm
Áo quan đóng nắp lại rồi
Từ đây muôn đời, vĩnh viễn
Đâu còn thấy nữa, Mẹ ơi!
 
Thân xác vùi trong lòng đất
Mẹ nằm giữa một đồi hoa
Mẹ ơi, mộ vừa mới lấp
Từ đây đất lạnh là nhà! 

86 tác giả. 86 câu chuyện khác nhau. Nguyễn Tường Giang kể chuyện “Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam”, Nguyễn Manh Hùng dịch truyện ngắn “Ngoài kia trời đang mưa” của nhà văn Tiệp Khắc Ivan Klima, Nguyễn Thị Ngọc Dung kể chuyện “Xin Thượng Đế”, Nguyễn Tường Nhung kể chuyện “Bắt đầu cuộc sống mới”, Đặng Đình Khiết phỏng vấn giáo sư Hoàng Văn Chí, Đinh Từ Bích Thúy viết về nhiếp ảnh gia nổi tiếng Eddie Adams, Nguyễn Thị Thanh Bình viết về kỷ niệm với nhà văn Mai Thảo, Phạm Thành Châu kể chuyện “Bão tuyết ở Virginia”, Uyên Thao kể chuyện “Vùng đất tình nhân”, Vũ Thất kể chuyện “Ngôi sao Sài Gòn”, Lê Thị Ý kể chuyện “Pleiku và tôi”, Lê Thị Nhị kể chuyện “Sóng thời gian”, Hoàng Thị Bích Ti kể chuyện “Đường Mười Sáu”… 

Để kết thúc bài viết này, chúng ta cùng đọc bài thơ “Khi dừng lại bên dòng Potomac” của Phạm Cao Hoàng. Bài thơ như một lời tri ân gửi đến dòng sông này và vùng đất này.

khi dừng lại bên dòng Potomac
em bên tôi vẫn rất dịu dàng
gió lồng lộng cả một trời Đông Bắc
tóc em bay trong nắng thu vàng
 
và như thế mình đi và đã đến
mình đã tìm và gặp được dòng sông
tôi ngồi xuống để nghe sông hát
và đứng lên ôm lấy mặt trời hồng
 
và như thế mình đi và đã đến
đã bên nhau thủy tận sơn cùng
tôi nằm xuống để nghe đất thở
tạ ơn đời độ lượng bao dung
 
khi dừng lại bên dòng Potomac
tôi và em nhìn lại quê nhà
buồn hiu hắt thương về chốn cũ
phía chân trời đã mịt mù xa

Trân trọng kính chào và cám ơn quí vị.


Tạp chí Văn Phong
Virginia, 16.8.2025


Liên lạc mua sách:
(703) 608 - 8001
nuuminhnguyen@gmail.com

528 . NGUYỄN MINH NỮU- Lời Chào Mừng của Chủ Biên Tạp Chí VĂN PHONG.


 

LỜI CHÀO MỪNG
CỦA CHỦ BIÊN TẠP CHÍ VĂN PHONG
 
Kính thưa các bậc trưởng thượng,
Kính thưa quí cô chú và quí anh chị,

Sông Potomac dài 652 km, bắt nguồn từ tiểu bang West Virginia, chảy ngang qua thủ đô Washington, D.C., tiểu bang Virginia và tiểu bang Maryland.

Khoảng 6 triệu người đang sống bên dòng sông Potomac, trong đó có khoảng 120 ngàn người Việt (Virginia khoảng 100 ngàn, Maryland khoảng 8 ngàn và Washington, D.C. khoảng 12 ngàn). Người Việt vốn cần cù, chịu khó nên khá thành công nơi vùng đất này. Đây cũng là nơi các sinh hoạt văn học nghệ thuật của người Việt hải ngoại được hình thành rất sớm. Nhiều văn nghệ sĩ đã chọn vùng đất này làm nơi định cư lâu dài.

Nhân kỷ niệm 50 năm xa xứ (1975-2025), tạp chí Văn Phong thực hiện cuốn sách này nhằm giới thiệu 86 khuôn mặt văn nghệ người Việt đã từng sống hoặc đang sống và viết bên dòng sông Potomac. Cách đây 26 năm, Văn Phong là một tạp chí in, ra được 17 số thì đình bản. Năm 2025, Văn Phong tục bản dưới dạng online và “Viết bên dòng Potomac 1975-2025” là cuốn sách đầu tiên chúng tôi thực hiện sau khi tục bản.

Thực hiện cuốn sách này thực ra là để trả lời một vấn nạn. Một câu hỏi đau đáu trong lòng không thể trả lời bằng một câu, hay rộng ra, không thể trả lời bằng một bài viết, và cũng không thể trả lời bời một người.

Bởi vì, câu hỏi chính sẽ kèm theo hàng loạt câu hỏi phụ khó trả lời rốt ráo.

Câu hỏi đó là gì?

Tại sao chúng ta có mặt trên đất nước này? Là một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến, có nền tảng văn hóa lâu đời và một truyền thống yêu quý nơi chôn nhau cắt rốn,  vậy khi định cư nơi đây chúng ta đã làm gì với vốn liếng văn hóa đó.  Rồi khi chạm tới nền văn mình tiên tiến và phát triển của nước Mỹ, chúng ta đã hòa nhập thế nào để tôn tại và phát triển.

Câu hỏi trên, nếu ngay bây giờ được hỏi. Chúng ta có thể trả lời, có thể sẽ dài dòng, có thể chưa bao quát, nhưng ít nhất là chúng ta đã có một quá khứ sống qua hai chế độ,  có một thực tế đắng cay bi thương đã trải qua,  để có thể trả lời, giải thích.  

Nhưng những câu hỏi đó được đặt khoảng 50 năm sau, liệu còn có ai có cái nhìn tổng thể để giải thích với con cháu chúng ta đời sau có được câu trả lời thuyết phục, minh triết, rõ ràng với những bằng chứng hiển nhiên bằng sự thật, để con cháu chúng ta tự hào là người Việt, tự hào về văn hóa tổ tiên và tự hào sự hòa nhập với cư dân chính quốc để phát triển bản thân.

Từ những trăn trở,  tự xét lại chính mình và dăm ba người bạn chí thiết chung quanh, đều cảm thấy câu trả lời của mình sẽ rất phiến diện, riêng tư, và chưa thuyết phục người nghe.

Không thể làm được một mình. Cho nên phát sinh ra ý định thực hiện một tập sách, trong đó thỉnh mời nhiều người cùng tiếp tay để có những cái nhìn rộng rãi khoáng đạt cho một vấn đề quá tế nhị và nhạy cảm này.

98 tác giả đã đáp lại lời thỉnh mời của chúng tôi, để rồi từ những góc đứng riêng biệt về tuổi tác, giới tính, quá khứ, hiện tại, ngành nghề, khuynh hướng  và cả phong cách diễn đạt nữa, đã đến nước Mỹ bằng nhiều cách khác nhau, chỉ có những điều giống nhau là những người hoạt động về văn hóa, cùng cư trú ở lưu vực dóng Potomac, kể lại chuyện vì sao đến đây và đến để làm gì và đặc biệt là đã sống và viết những gì trong năm mươi năm xa xứ.

Không phải là câu trả lời trực tiếp. Nhưng bàng bạc trong 98 bài viết, chúng ta bây giờ, và con cháu chúng ta ngày sau đã có câu trả lời cho chuyện có mặt của chúng ta bây giờ trên đất Mỹ.

Đây không phải là một tuyển tập. Chỉ là một tập hợp những khuôn măt văn nghệ trong vùng được lưu giữ như một ghi nhận những đóng góp trên lĩnh vực văn học nghệ thuật của các tác giả trong cuốn sách. Góp mặt vào cuốn sách còn có 12 tác giả ở Hòa Lan, Pháp, Canada và ở các tiểu bang Texas, California, New Jersey, Ohio và Michigan. Còn nhiều tác giả khác đã sống và viết bên dòng Potomac trong suốt thời gian 50 năm qua, nhưng vì nhiều lý do riêng đã không thể có mặt trong tập sách này, Chúng tôi có cố gắng liên lạc nhưng rất tiếc là cho đến ngày chót đúc kết bài vở vẫn không thể nhận được phản hồi.

Bài vở gồm thơ, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, bút ký, biên khảo, nhận định và dịch thuật.

Về hội họa, có 28 tác giả có chân dung do các họa sĩ vẽ. Ngoài ra, còn có các phụ bản và tranh minh họa của các họa sĩ Võ Đình, Ngọc Dũng, Đinh Cường, Trương Vũ, Đinh Hoàng Oanh, Nguyễn Trọng Khôi, Đinh Trường Chinh, Quốc Vũ.

Về bộ môn nhạc, tất cả các sheet nhạc và các bài thơ (trong sách) đã được phổ nhạc đều có cài mã QR code. Người đọc có thể nghe các bản nhạc bằng cách mở chế độ camera trên điện thoại và quết vào mã QR code đó, 

Mặc dù rất cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự thông cảm của các tác giả và quí độc giả.

Cuối cùng, chúng tôi xin gửi lòi cám ơn đến các tác giả đã đóng góp bài vở, cám ơn gia đình của các tác giả đã qua đời và cám ơn các anh chị Đặng Đình Khiết, Trương Vũ, Trần Anh Chương, Bà Bích Duyên, Bà Mary Hay, Bà Nguyễn Tú..   đã hỗ trợ tài chính để chúng tôi có thể trang trải những chi phí ban đầu khi thực hiện cuốn sách này. 

Chúng tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến Mục sư Phạm Đức Hiếu  và Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Việt Mỹ, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại vùng Đông Bắc Hoa Kỳ,  nhà in Focus Digital Publishing, Tổ chức Nhà Việt Nam, các ca nhạc sĩ tham gia chương trình và các tình nguyện viên đã đóng góp công sức, tiền bạc để tổ chức buổi gặp gỡ hôm nay. 

Hy vọng trong tương lai chúng tôi sẽ có thêm những công trình khác để tiếp tục phục vụ cộng đồng, tiếp tục gìn giữ và phổ biến tiếng Việt của chúng ta ở quê  người. 

Xin kính chúc sức khỏe đến toàn thể quí vị và mong rằng cuốn sách quí vị đang cầm trong tay là niềm vui chung của tất cả chúng ta. 

Xin cám ơn, và trân trọng kính chào.

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2025

NGUYỄN MINH NỮU. Niềm vui bất ngờ cho ngày Ra Mắt Sách VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC.

Còn hai ngày nữa, buổi trưa ngày 16 tháng 8 năm 2025 sẽ có buổi sinh hoạt ra mắt tác phẩm "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC 1975-2025" tập hợp bài viết của 86 tác giả trong vùng đông bắc và 12 tác tác giả phương xa.  Sách đã in xong một tuần rồi, có một số người yêu quý sách đã gửi tiền mua trước nên nhóm chủ trương đã chủ động gửi sách tới một số thân hữu. Sáng ngày 14/6/2025, chúng tôi nhận được tin vui từ bà Nguyễn Bích Duyên, một thân hữu chí tình của Tạp Chí Văn Phong. Bà là người phụ trách chương trình Tình Ca Chọn Lọc cho Đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngoại, sau khi nhận được sách, bà nồng nhiệt gọi điện chúc mừng khen ngợi và bà rủ thêm một người bạn là Bà Mary Hay gọi tới ủng hộ chi phí in ấn sách  1000 dollars và ủng hộ thêm 1000 dollars mua thức ăn phục vụ cho buổi ra mắt sách. Đây là một tin vui bất ngờ. Chân thành cám ơn  Bà NGUYỄN BÍCH DUYÊN và Bà MARY HAY. Hai vị đã cho chúng tôi lời cổ vũ, sự ủng hộ nhiệt tình và quan trong là sự động viên lớn lao trên con đường SỐNG và VIẾT. 

Thay mặt Ban Biên Tập Tạp chí Văn Phong và Ban Tổ Chức Ngày Ra Mắt Sách

Nguyễn Minh Nữu.

Virginia, 14/8/2025



Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2025

527. NGUYỄN MINH NỮU. Nguyễn Minh Diễm, Anh tôi.


Nguyễn Minh Nữu

Nguyễn Minh Diễm, anh tôi


Nhà báo Nguyễn Minh Diễm
(1943 - 2014)

Anh Dim mt đi là mt bt ng vi tôi, bt ng và ht hng trong suy nghĩ ca tôi.

Thc ra, anh Dim đã lâm bnh t 7 năm ri, đu tiên là bao t, sau khi ct đi mt phn bao t, ri x tr và hóa tr anh đã nghiêm chnh thc hin mt chế đ ăn ung, sinh hot điu đ và đã tr li bình thường  được my năm, sau đó  li b v phi, ln này ghê gm hơn vì tưởng là di căn t bao t, nhưng c nhà "vui mng"  khi biết anh b cái ung thư này là ung thư khác, không phi di căn t cái cũ. Anh li tri qua thi gian dài cho điu tr x tr, hóa tr và anh li vượt qua, hi sc.  Sc khe ca anh phc hi n đnh, t nhng lúc mê man trên giường bnh, anh đã ngi dy và t t bước đi. Anh thc hin vic ăn ung ngh ngơi điu đ, gii hn và nghiêm khc.

Nhưng căn bnh quái ác không đ anh yên, vào nhng ngày k cn vi Thanksgiving năm 2013, anh b nhc đu càng lúc càng nhiu, đưa vào bnh vin cho biết trong não có nước, và ghê hơn na là khi th nghim thy có tế bào ung thư trong đó. Căn bnh đánh gc anh xung giường bnh, có lúc không th t ngi dy, không di chuyn được nhưng tài năng ca các v bác sĩ, s công hiu ca thuc men, và mt tinh thn vng vàng, chu đng, cùng vi s chăm sóc hết sc k lưỡng, chu đáo ca Ch Dim , anh đã làm nhng vic thn kỳ: ngi dy, bước xung giường, đu tiên là tng bước chm vn vào walker, ri sau đó không cn walker vn t đi tng bước t dưới dưới nhà lên lu, t phòng khách vào phòng ăn...,da mt hng hào, nói chuyn minh mn.  Ngày 8.3,  sau my tháng  đng lên t cơn bnh, gia đình đưa anh đi shopping  ti Old Town,  Alexandria. Nhìn anh thong th đy walker đi do, trong n cười vui v ca c gia đình còn có nhng giọt  nước mắt mừng vui .                                                                                                
Trong thi gian t tháng 4 đến hết tháng 6 .2014 c gia đình đã có nhng ba cơm ngon ming, nhng bui gp g anh ch em trò chuyn thú v và còn ngi gii trí  vi nhau bng nhng canh chn khỏa ch Nguyn Th Bi Cn, ch rut  ca anh em tôi t Vit Nam qua thăm. Ri mùa World Cup anh ngồi bên các con theo dõi tt c các trn đu vi nhng tràng cười thoải mái.

Nhân ngày gi đu ca nhà văn Lê Thip, t sách Tiếng Quê Hương xut bn và ra mt cun "Ung Thư ơi , chào mi".  Người đng ra t chc - nhà báo Đào Trường Phúc - nói vi tôi rng trong cun đó anh Dim có viết mt bài, có th nào mi anh Dim tham d  hôm đó được không. Thi gian đó tôi đang New Mexico thăm cháu ngoi nên không dám ha vi Đào Trường Phúc chuyn s đưa anh Dim ti d, nhưng t tiu bang xa, anh Đào Trường Phúc vui v báo tin hôm đó anh Dim có đến và đc bit hơn na là đã bng lòng bước lên nói mt vài suy nghĩ ca mình trước c ta. Tôi vui mng khôn xiết trước s hi phc như thn kỳ ca anh .

Nhưng chuyn không êm đm như vy. Bui ti ngày 14.7 anh tr mt, khó th, ói  ma và nhc đu... Gia đình đưa vào Fairfax Hospital nm ba ngày. Anh dn khe li , d tính   ngày 17 bác sĩ s cho xut vin v nhà, nhưng cũng t ngày 17 sc khe anh yếu dn... và ra đi vào trưa ngày 23 tháng 7.

Anh Dim mt đi là mt bt ng vi tôi, bt ng và ht hng trong suy nghĩ ca tôi.

Tôi nói vy, vì khi trên chuyến bay t New Mexico v li Virginia, ch tôi đã báo tin "Anh Dim vào bnh vin và  hi phc dn, Nu v ti Virginia thì  có l anh Dim đã được v nhà. Cái tâm trng là anh s vượt qua, s hi phc mang trong tâm trí tôi cho nên khi vào nhìn thy anh nm thiêm thiếp tôi vn chưa kp điu chnh li suy nghĩ ca mình thì anh yếu dn ...

Anh Dim hơn tôi 7 tui. Cái tui chnh lch này nếu sng trong mt đt nước thanh bình như Hoa Kỳ thì không có gì là xa xôi quá, nhưng hi đó khi Vit Nam, thì hai anh em chúng tôi là hai thế h rt khác bit ca thi đi.

Anh thuc la thiếu niên min bc đi cư vào nam khi va bước chân vào giai đon trung hc. La tui sinh khong đu và gia thp niên 40. H vào nam theo mt làn sóng di cư khng l và sng theo không gian Sài Gòn nhưng li bng sc sng mãnh lit ca la tr va b mt quê hương, va vượt qua ca chết, va khao khát vươn lên trong đi sng mi... Nhng người đó, sau này là bn vi anh tôi, hu hết nếu không mun nói là tt c nhng người la tui đó mà tôi biết được đu là nhng tm gương hết sc  đáng quý trong lãnh vc h tham d.

Còn tôi , hay nhng người thuc cái la tui  sinh trong thp niên 50 thì li khác.  La tui trước thì sinh ra trong bom đn chiến tranh, sng và vượt lên t nhng làn ranh bt an, khn khó, nhưng sau đó la tui đó được hưởng khong 10 năm cho thi gian an n đ phát trin hc hành và năng khiếu . Còn la tui chúng tôi thì ngược li.

Chúng tôi ra đi , và thi thơ u có th nói là được sng trong thanh bình, nhưng khi va ln lên li đi đu trc tiếp vi chiến tranh, sau năm 1960, min nam không còn an bình na, và năm 1968, sau khi lnh Tng Đng Viên ban hành, bn bè tôi, hu hết bước vào quân ngũ và tan đi khp bn phương tri.