Thứ Năm, 25 tháng 12, 2025

670 . NGUYỄN PHÚ YÊN - MỘT GÓC NHÌN TỪ TRONG NƯỚC: 50 NĂM ÂM NHẠC HẢI NGOẠI.

                                                                                   

50 NĂM ÂM NHẠC HẢI NGOẠI (1975 -2025)

Nguyễn Phú Yên

    

     Năm 1975, sau sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa, một bộ phận người Việt liên quan chính quyền cũ rời khỏi Việt Nam với các hình thức di tản, vượt biên, các dạng bảo lãnh của chính quyền (HO), bảo lãnh gia đình hoặc ra đi trong trật tự (ODP). Các cộng đồng người Việt sống lưu vong tại nhiều nước trên thế giới, tập trung ở các nước châu Âu, châu Mỹ, đông nhất là tại Hoa Kỳ mà hiện nay đã đạt đến con số 2,3 triệu người. Trong số những người lưu vong có nhiều nghệ sĩ, diễn viên, nhạc sĩ, ca sĩ. Trong hoàn cảnh ly hương, các nhạc sĩ cũ và mới tiếp tục sáng tác nhiều bài hát mới.

     Nhạc hải ngoại là một khái niệm thường được dùng để chỉ các hoạt động âm nhạc do các nghệ sĩ gốc Việt sáng tác và trình bày tại các nước mà người Việt sinh sống. Nền âm nhạc đó còn bảo lưu những ca khúc tân nhạc Việt Nam thuộc nhiều dòng nhạc khác nhau đã từng hiện diện ở trong nước mà họ đem theo như nhạc tiền chiến, rồi đến các sáng tác với nhiều chủ đề từ 1954 đến 1975. Ngoài ra trong hoàn cảnh mới có những sáng tác được viết trong nhiều thập niên sau 1975, trong đó có những ca khúc nước ngoài được viết lời Việt hay những sáng tác mang âm hưởng dân ca ba miền. Họ còn viết các thể loại nhạc không lời, nhạc kịch, nhạc đương đại... để phục vụ các thế hệ trẻ.

     Có thể kể đến các dòng chảy nhạc Việt chính như sau.

1.   Dòng nhạc về thân phận lưu vong.

     Người rời bỏ quê hương luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thân phận lưu vong. Từ đây trong hoàn cảnh mới, họ cảm thấy xa lạ nơi vùng đất mới, xa lạ với mọi phong tục, tập quán của họ trong quá khứ. Một thứ tiếng nói lạ họ phải làm quen. Do đó, trong cuộc sống, khi đối diện với chính mình, họ luôn bày tò cảm xúc của một người mang tâm trạng lưu đày đang đi tìm một chốn nương thân. Chủ đề thân phận lưu vong đã xuất hiện trong sinh hoạt văn nghệ của họ ngay từ những ngày đầu mới đến vùng đất mới.

     Có thể nói tác phẩm của NS Nam Lộc là tâm trạng của một người di tản cô đơn, buồn khổ, khi họ nghĩ đến quê hương xa vời, nơi đó có những con phố, những hàng cây thân quen, nghĩ đến người thân yêu của mình có thể lạc loài ở phương trời nào đó với bao nỗi trầm luân:

Chiều nay có một người đôi mắt buồn
Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa…
Cho tôi xin lại một ngày, ở nơi nơi thành phố cũ
Cho tôi xin lại một đời, một đời sống với quê hương
Cho tôi đi lại đoạn đường, hàng cây vương dài bóng mát
Cho tôi an phận ngàn đời, bên bờ đê vắng làng tôi…

     (Nam Lộc, Người di tản buồn)

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2025

689 .TIỂU LỤC THẦN PHONG . MÙA XUÂN VĨNH VIỄN.

                                                                                                         


 

 MÙA XUÂN VĨNH VIỄN

 Thế là mùa xuân về, em ở đâu chẳng về phó hội? em ở đâu mắt biếc má đào có còn long lanh giữa giòng đời? áo lụa, gót son có về kịp xênh xang đón xuân sang?

 Hỏi tức là thưa, hỏi chỉ để mà hỏi! Em chẳng về phó hội thì làm sao có mùa xuân, mắt biếc má đào không còn long lanh thì đời làm gì có mùa xuân, chắc chắn em sẽ về mỗi độ xuân sang. Mùa xuân đẹp lắm ư? nói thế khác gì khen “ Phò mã tốt áo”, mùa xuân là hiện thân của cái đẹp cơ mà! Mùa xuân mở đầu vận hội mới, mùa xuân là sức sống, là tuổi trẻ, là niềm tin và hy vọng trong đời.

 Có gã từng bảo rằng:

 Xuân đất trời bây giờ mới đến

 Trong lòng tôi xuân đến đã lâu rồi

 ( Thơ TLTP)

 Mùa xuân của đất trời mỗi năm có một lần, mùa xuân trong lòng người thì chẳng nệ thời gian. Nó laị lệ thuộc vào tâm tưởng của chính mình, khi mình vui thì xuân hiển hiện; khi mình đau buồn thì chẳng thể thấy mùa xuân. Xuân trong nhà Phật còn gọi là xuân Di Lặc, vì ngày đầu xuân là ngày vía của ngài. Trong văn học nước nhà, thơ văn Lý- Trần là một mảng quan trọng, là thành tựu, là dấu ấn của một thời độc lập tự chủ, một thời phát triển rực rỡ của dân tộc. Trong ấy có bài thơ- kệ “ Cáo tật thị chúng”  của Mãn Giác thiền sư mà hầu như ai ai cũng biết, cũng thuộc:

  Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

  Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Mùa xuân vĩnh viễn, mai có rụng,  hoa tàn hương tận thì mùa xuân vẫn không bao giờ tàn. Hoa mai của đất trời có nở, có tàn nhưng đoá mai trong lòng người thì vĩnh viễn và mãi mãi.

 Mùa xuân dân tộc ta cũng trải dài mấy ngàn năm, tuy có lúc thăng trầm, có lúc tưởng chừng như diệt vong nhưng rồi laị hồi sinh. Mùa xuân năm bốn mươi, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đuổi Tô Định về phương Bắc, lấy sáu mươi thành lập quốc đóng đô ở Mê Linh. Mùa xuân 504 Lý Bí đánh đuổi bọn thái thú về Tàu và lập nhà nước Vạn Xuân, xuân đất trời, xuân dân tộc cùng rạng rỡ. Xuân Kỷ Hợi  Ngô Quyền khôi phục nền độc lập tự chủ, chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc. Mùa xuân Mậu Thìn, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế lập nước Đaị Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Kế đến là những mùa xuân nhà hậu Lý, mở đầu một kỷ nguyên mới, làm nền tảng cho một thời kỳ độc lập tự chủ và phát triển rực rỡ của dân tộc.  Mùa xuân Yên Tử, thượng hoàng Nhân Tông lên núi tu hành mở ra trường phái Trúc Lâm- Yên Tử, một dòng thiền thuần Việt, những mùa xuân của thời kỳ mà lịch sử gọi là “ Hào khí Đông A”. Mùa xuân Mậu Tuất, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh, dựng laị cơ nghiệp bị giặc Bắc phương hủy diệt mong đồng hoá dân ta. Mùa xuân Kỷ Dậu với chiến thắng Đống Đa, mở ra một kỷ nguyên mới, đây là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng ca dựng nước và giữ nước. Giặc phương Bắc chưa bao giờ sợ ta đến như vậy! Mùa xuân Kỷ Dậu còn gọi là mùa xuân Đống Đa, mùa xuân chiến thắng… Sau này, khi vua Quang Trung băng. Ngọc Hân, nàng công chúa tài hoa đã viết những giòng thơ tâm huyết ca ngợi người anh hùng dân tộc vắn số:

 Mà may áo vải cờ đào

 Giúp dân dựng nước xiết bao công trình

 Dòng sử dân tộc gắn liền với những mùa xuân hiển hách, nhưng cũng có những mùa xuân đau buồn lắm. Để bảo toàn tánh mạng của giòng tộc trước sự tận diệt của Trần Thủ Độ. Hoàng tử Lý Long Tường phải mang gia đình và gia nhân vượt biển sang Cao Ly lánh nạn, cuộc lánh nạn kéo dài mười thế kỷ, mãi đến cuối thế kỷ hai mươi  naỳ hậu duệ mấy mươi đời mới tìm về cội nguồn ở Đình Bảng.  Những năm tháng lưu lạc, hoàng tử đã lập vọng quốc đài để ngày ngày lên đài ngóng về quê hương. Người Việt vốn là cư dân của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, sống quây quần trong xóm làng, dòng tộc… ít khi nào đi xa, những khi buộc phải ly hương là bất đắc dĩ lắm. Cũng trong thế kỷ hai mươi này, nước Việt nhiều loạn lạc. Cả triệu người Việt phải ly hương, rồi dần dần hình thành nên những cộng đồng Việt bên ngoài biên giới nước nhà. Người Việt dù sống ở đâu cũng nhớ về quê cha đất tổ, có thể con người ta ra đi với nhiều lý do nhưng ai cũng mang trong tâm hồn mình hình bóng quê nhà. Đạo Phật gắn liền với dân tộc hai ngàn năm nay, dù có là Phật tử hay không thì ít nhiều hình bóng ngôi chùa cũng có trong tâm tưởng. Tư tưởng sống “Ở hiền gặp lành”, “ Nhân nào quả nấy”, “Gieo gió gặt bão”… đều thấm đậm tư tưởng và triết lý của nhà Phật. Vì vậy khi ly hương, khi sống nơi viễn xứ con người ta laị thường tìm về những mái chùa Việt, nhất là những ngày lễ hoặc ngày tết. Mọi người tìm về mái chùa để không chỉ lễ Phật mà tìm chút hơi ấm và hình bóng quê hương. Thi sĩ- nhà sư Huyền Không đã viết:

 Mái chùa che chở hồn dân tộc

 Nếp sống muôn đời của tổ tông

 Đạo Phật đã ăn sâu vào văn hoá và lối sống của người Việt Nam. Người ra đi mang theo cả hai trong tâm tưởng mình, làm sao mà có thể tách rời hình bóng quê hương với mái chùa được? nói đến quê hương không thể không nhắc đến đồng lúa, dòng sông, con đò, góc phố… dĩ nhiên càng không thể không nhắc đến mái chùa, dù là chùa làng hay chùa nơi phồn hoa phố hội. Người sống đến chùa lễ Phật cầu an, nương tựa tinh thần. Người chết gởi nắm tro tàn xương cốt, ngày đêm nghe kinh hưởng hương khói. Sống hay chết cả đời cũng gắn bó với chùa, thậm chí nếu còn tái sanh trở laị kiếp người thì chắc vẫn gắn bó với chùa.

 Em về trẩy hội xuân

 Hoa đào rực rỡ

 Thấp thoáng má hồng

 Như ngàn năm cổ tích tự phương Đông

( thơ TLTP)

Người ly hương viễn xứ, lòng canh cánh nhớ thương nhất là khi mỗi độ xuân về. Mùa xuân cũng là lúc sum họp gia đình, bạn bè… Mùa xuân về lòng khắc khoải lắm nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện để về thăm. Mùa xuân với hoa mai, hoa đào như gợi laị dĩ vãng của phương Đông.

 Mùa xuân son sắt vĩnh hằng

 Năm rồi năm vẫn đãi đằng đôi nơi

 Mình xa góc bể chân trời

 Nhớ mùa xuân nhắn một lời nước non

( thơ TLTP)

 Người ra đi lòng vẫn nhớ, con tim chia hai nửa mang theo nửa để laị quê nhà. Phần nhiều ai cũng nhớ quê hương, với những gã du tử thì càng tha thiết biết bao. Những gã du tử mang nghiệp chữ lòng mang mang viết nên những bài thơ, áng văn dâng cho đời. Mùa xuân về nước non cố quận mình tưng bừng trẩy hội, cho dù có nhiều hư hao và dang dở. Nước non dù còn nhiều nguy hiểm tồn vong, đời dù lắm dâu bể đổi thay, lòng người dù đa đoan… nhưng tình vẫn tha thiết lắm em ơi! bởi vậy mà:

Mùa xuân cố quận tưng bừng

Mặc đời dâu bể chưa từng hư hao

( thơ TLTP)

 TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, xuân Canh Tý

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2025

688 . THÂN TRỌNG SƠN - VÀI GIAI THOẠI VỀ LỄ GIÁNG SINH CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT.

                                                                                                      


 Giáng sinh sắp tới, đã nghe rộn ràng tiếng hát Merry Christmas…, đã thoáng thấy hình ảnh Ông già Noël, bánh khúc cây, hang đá…

Những thứ này xuất phát từ đâu, có gì lạ, có gì hay?

Mời bạn xem qua.

 1.     Ông già Noël  không cùng một tên, tuỳ thuộc nơi bạn sinh sống. Le père Noël ở Pháp, Santa Claus ở Mỹ, Father Christmas ở Anh. Saint Nicolas ở Bỉ và Đức, Papa Noël ở Brazil, Joulavana với người Esthonie, Did Moroz với dân Ukraina.

 2.    Ông già Noël có nguồn gốc từ Saint Nicolas  ( Thánh Nicolas  )   rất nổi tiếng ở miền Đông nước Pháp. Thánh Nicolas đem kẹo và đồ chơi cho trẻ em ngoan, vị tu sĩ hầu lễ mang than đến cho kẻ ác. Thánh Nicolas di chuyển trên lưng lừa, điều có thể gây khó khăn. Chính vì vậy mà một người Mỹ tên là Clement Moore, năm 1821, có viết truyện ngắn kể rằng một người đàn ông râu ria đi phát quà cho trẻ em khắp nơi trên thế giới, di chuyển trên lưng tuần lộc. Bước đầu huyền thoại ông già Noël là như thế.

 3.    Từ khi  ông già Noël mới xuất hiện, người ta đã nói đến nơi cư ngụ là Romaniem ở Phần Lan. Địa điểm này  bị tranh cãi vì ai cũng muốn giành ông già Noël! Ở Mỹ, người ta cho rằng ông sống ở Bắc cực, trong lúc người Úc lại cho là có một đảo Christmas như nơi cư ngụ phụ. Người Na Uy chỉ ra căn nhà ở Dobrak, cách Oslo 50 km, đó lại là Groenland cho người Đan Mạch. Nói gì thì nói, ngôi làng của ông già Noël chính xác là Roveniemie, Laponie, Phần Lan.

 4.    Theo tục lệ, phải viết thư cho ông già Noël để báo cho biết mình muốn gì, nhưng gởi thư đi đâu. Trong nhiều nước, chỉ cần ghi: Gởi ông già Noël, Bắc cực hay Laponie là thư được chuyển đến. Có một thời, người Pháp được gọi tới ông theo số điện thoại 08-36-65-65-65.

 5.    Bạn biết chăng bánh buche de Noël ( bánh khúc củi ), bánh truyền thống vào dịp này ra đời từ lễ hội Yule cổ xưa, được người dân Bắc Âu, cụ thể là người Teuton Celtique kỷ niệm như một trọng thể. Khi ngày 25/12 được ấn định là ngày lễ Giáng Sinh thì đêm 24/12 họ sẽ đốt một khúc gỗ để chào mừng ngày Đông chí và cũng là dịp để đón chào sự trở lại của Thần Mặt trời.

       Cũng có ý kiến cho rằng theo tục lệ của người phương Tây, trước đêm Giáng Sinh, họ sẽ vào rừng chặt một khúc cây lớn và đem về nhà làm lễ dâng rượu. Khúc cây được rắc thêm ít dầu, muối, rượu nóng, mọi người bắt đầu nghi thức cầu nguyện. Tiếng lửa kêu lách tách và bột than có từ khúc cây đã cháy sẽ bảo vệ căn nhà tránh khỏi thiên tai và sự xâm nhập của ma quỷ - các bà mẹ thường dùng bột tro rắc khắp nhà và tủ quần áo. Từ đây có thể là nguyên nhân những vụ cháy. Lợi bất cập hại, tục lệ bị bãi bỏ, thay vào đó, người ta bắt đầu làm bánh ngọt hình khúc gỗ. Chiếc bánh buche de Noël ra đời năm 1834 bởi một người thợ làm bánh của tiệm bánh La Vieille France, lấy hình dáng khúc cây thay thế cho khúc gỗ thật. Ngày nay bánh buche de Noël đã có mặt khắp thế giới, người ta làm quà tặng.


687, Phan Tấn Hải: Cuối năm đọc thơ, xem tranh với: Viết bên dòng Potomac 1975-2025



Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế.  Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi. Và nhiều nữa. Bây giờ California chớm lạnh rồi, hẳn là Miền Đông đang lạnh gay gắt.

Do vậy, mỗi lần mở ra xem tuyển tập các sáng tác thơ, văn, họa của các văn nghệ sĩ đang ở bên dòng sông Potomac, nơi giáp biên thủ đô và hai tiểu bang Virginia, Maryland, những trận mưa tuyết lại rơi rất nhẹ bao phủ bầu trời ký ức. Những hàng cây hoa anh đào đứng kiên nhẫn ở thù đô.  

"Viết bên dòng Potomac" là tên một tuyển tập văn học đặc biệt gồm 2 tập, tập hợp các tác phẩm của 86 tác giả người Việt định cư tại vùng lân cận và  thủ đô Washington D.C. (quanh dòng sông Potomac, Hoa Kỳ), kỷ niệm 50 năm người Việt hải ngoại (1975-2025), thể hiện sự đa dạng về hoàn cảnh và nghiệp văn của cộng đồng người Việt tại đây. Sách đang lưu hành ở mạng Lulu.

Chân dung Nguyễn Ngọc Bích - Tranh Trương Vũ

Có một bài thơ trong tuyển tập mà tôi đã đọc nhiều thập niên, và bây giờ thỉnh thoảng vẫn mở ra đọc lại. Đó là bài "Trời Mưa Đi Phát Báo" của Giang Hữu Tuyên (1949-2004), người có thân hình không được khắc khổ gầy gò như chúng ta thường thấy ở nhiều nhà thơ ở quê nhà. Anh Giang Hữu Tuyên và nhà báo Ngô Vương Toại (1947-2014) có nhiều năm đi bên nhau sát cánh, để giúp Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích trong nhiều sinh hoạt văn nghệ, cộng đồng, và dĩ nhiên, đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào quê nhà. Bây giờ tôi đã vào tuổi cổ lai hy được vài năm, với mắt đã lòa và tai đã lãng, vẫn luôn luôn kinh ngạc khi nhớ rằng những người cực kỳ thơ mộng như hai anh Tuyên và Toại lại không ở lâu trong cõi đời này. Giang Hữu Tuyên ra đi năm 55 tuổi, anh Toại ra đi năm 67 tuổi.

Anh Giang Hữu Tuyên ưa đọc thơ cho "hậu bối" (là tôi) khi có dịp. Anh Tuyên thường có những cao hứng như thế. Tôi còn nhớ mấy dòng trong bài thơ “Về giòng sông Trẹm” anh Giang Hữu Tuyên ưa đọc:

Chinh chiến người đi như lá mục
Giòng sông kia nước đỏ thêm hoài
Máu ai chảy từ bao năm trước
Mà nối không liền được đất đai.

Thơ anh rất buồn. Khi nhắc tới hai anh Tuyên và Toại, tôi luôn luôn nhớ tới GS Nguyễn Ngọc Bích, người có nhiều năm giữ chức Giám Đốc Đải RFA và từ trần trên một chuyến bay sang nước Úc. Ra đi ngay trên bầu trời, giữa các vầng mây. Có phải các cõi trời chờ sẵn trên mây để đón giáo sư Bích? Những buổi sinh hoạt dù văn nghệ hay cộng đồng của các anh Bích-Tuyên-Toại gần như luôn luôn có mặt nhà giáo Nguyễn Văn Khanh (về sau, là nhà truyền thông của Đài RFA và bây giờ là bình luận gia của báo Người Việt), nhà khoa học Trương Hồng Sơn (người nhiều năm sau nổi tiếng như một nhà văn và họa sĩ Trương Vũ), nhà thơ Trương Anh Thụy (người có văn phong thơ rất mực cổ kính), đôi khi có mặt nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Bình.

Chân dung Ngô Vương Toại - Tranh Đinh Cường

Ký ức những trận mưa tuyết Virginia trong tôi cũng hiện ra họa sĩ Ngọc Dũng, người không có mặt nhiều với cộng đồng vì bận công việc trong tòa soạn báo Mỹ; rồi mơ hồ nhớ tới nhà báo Lê Thiệp khi anh tới Miền Đông mở tiệm phở... Tuyệt vời thơ mộng ở Miền Đông cũng là nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, nhạc sĩ Hoàng Xuân Giang, nhà văn Hồ Đình Nghiêm... khi tôi lái xe qua thăm bạn học là nhà thơ Lưu Nguyễn. Và những buổi lang thang hiếm hoi ở New York với họa sĩ Nguyễn Quỳnh, người khi sang Mỹ đi học lại và lấy 2 bằng Tiến sĩ (mà một chuyên ngành rất phức tạp, hình như là triết học về mỹ thuật, buộc phải học thêm tiếng Đức...) và bây giờ anh Quỳnh đã về dạy ở một đại học San Antonio (Texas) từ lâu. Tôi còn nhớ một lần bị cảnh sát ghi giấy phạt vì đậu xe ẩu dưới khu chung cư anh Quỳnh.

Chân dung Hồ Đình Nghiêm - Tranh Đinh Cường

Nơi đây, nhân dịp cuối năm, xin trích đăng một số bài thơ trong tuyển tập "Viết bên dòng Potomac" để cho tròn 50 năm Miền Nam sụp đổ. Lựa chọn phần lớn sẽ là tình cờ. Sẽ xen kẽ với vài tranh chụp lại từ Tuyển Tập..

.... o ....

Bài dưới đây là của Giang Hữu Tuyên.
 
TRỜI MƯA ĐI PHÁT BÁO


Chiều ngã năm đường năm bẩy ngã
Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi
Bao mùa mưa đã im giông bão
Sao nước trường giang vẫn khứ hồi
 
Mười mấy năm làm tên phát báo
Lòng buồn theo thành quách xa xưa
Những trang tin dội từ quá khứ
Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa
 
Mưa lót ngót, đời loi ngoi mãi
Sáng chưa đi, chiều lại mưa về
Mưa ngã năm từ năm bẩy ngã
Ngã nào cũng mưa và mưa thôi
 
Xấp báo trên tay vừa ướt hết
Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay
Hình như những mùa mưa thuở trước
Đang về làm ướt trái tim ai.
-- GIANG HỮU TUYÊN (Viết Bên Dòng Potomac I, trang 146)
 
.... o ....
Bài thơ dưới đây của Hoàng Hải Thủy.
 
ĐỌC THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG


Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay.
Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
Anh vẫn Hoàng Chương, vàng với ngọc,
Trần ai nào lấm được trời mây.
Người về ngôi cũ, thơ trầm nhạc,
Tàn lửa hồng hoang, khói mái tây.
Chín ngục A Tỳ ma sửa mũ,
Mười tầng địa phủ quỉ cung tay.
Cười vang một tiếng tan tinh đẩu,
Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.

-- HOÀNG HẢI THỦY (1933-2020) (VBDP 1, tr. 167)

Chân dung Phạm Cao Hoàng - Tranh Đinh Cường...

 

Bài thơ dưới đây của Phạm Cao Hoàng. 


KHI DỪNG LẠI BÊN DÒNG POTOMAC


khi dừng lại bên dòng Potomac
em bên tôi vẫn rất dịu dàng
gió lồng lộng cả một trời Đông Bắc
tóc em bay trong nắng thu vàng
  
và như thế mình đi và đã đến
mình đã tìm và gặp được dòng sông
tôi ngồi xuống để nghe sông hát
và đứng lên ôm lấy mặt trời hồng
  
và như thế mình đi và đã đến
đã bên nhau thủy tận sơn cùng
tôi nằm xuống để nghe đất thở
tạ ơn đời độ lượng bao dung
  
khi dừng lại bên dòng Potomac
tôi và em nhìn lại quê nhà
buồn hiu hắt thương về chốn cũ
phía chân trời đã mịt mù xa
-- PHẠM CAO HOÀNG (VBDP II, tr. 106-107)
 
.... o ....
Bài thơ dưới đây của Trần Hoài Thư.
 
ĐÊM TỪ BIỆT VIỆT NAM
 
Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Đêm ấy đêm trừ tịch
Có những con người lại cách ngăn
  
Chào những đường thân, những lối quen
Những hàng cây rũ lá bên thềm
Chào cây cầu đá qua thành phố
Chào những bờ hiên, những cột đèn
  
Chào ai, lầm lũi trong đêm lạnh
Cơn gió giao mùa chớm lá xuân
Người về cho kịp đêm đoàn tụ
Ai lại lên đường. Ai lặng câm
  
Vẫn biết lần đi là bỏ hết
Là phủi tay. Cháy túi. Sạch trơn
Quay nhìn lại: Em còn bóng nhỏ
Ngọn đèn vàng lạnh một dòng sông
  
Về đi. Em nhớ đừng ôm mặt
Rồi thắp giùm anh một nén nhang
Con có hỏi anh. Em hãy chỉ
Mây dịu dàng trôi giữa mênh mông
  
Về đi để tiếp đời cô phụ
Tiếp mảnh hồn khô héo nhớ nhung
Mai mồng Một, cắn răng đừng nấc
May cuộc đời tươi đẹp mùa xuân
  
Về đi để trả bài ma quỉ
Những đau thương câm nín chất chồng
Em hãy lấy ngày này giỗ kỵ
Một ngày nào chim đã bặt tăm
 
Về đi, kẻo máy tàu đã nổ
Như những người ôm ngực con tim
Trong khoang chật, nghe chừng nín thở
Anh hùng đâu. Một nỗi lặng thinh
  
Gió trừ tịch hú dài Bãi Giá
Đập mạn thuyền, sóng vỗ buồn tênh
Đêm vượt thoát ai ngồi nín thở
Cả quê nhà, mờ nhạt hai bên
  
Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Một vệt mờ xa thẳm
Một chút rưng rưng bật xé lòng
  
Việt Nam. Tối quá, không đèn lửa
Ta ở trên thuyền ngực vỡ toang
Một nỗi buồn như đông đặc lại
Một nỗi vui oà vỡ cả hồn
  
Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương
 
Là lúc lòng dửng dưng chờ đợi
Nỗi dửng dưng buồn bã lạ lùng
Như thể trong một trời chuyển động
Một giọt sương cô độc tận cùng.
-- TRẦN HOÀI THƯ (1942-2024) (VBDP II, tr. 393-394)


Đinh Trường Giang - Chân dung tự họa


Đinh Trường Chinh - Chân dung tự họa
.... o ....

Bài thơ dưới đây của Đinh Cường.

ĐOẠN GHI SAU NGÀY TUYẾT BẤT NGỜ  

đường trơn
tuyết đọng chưa tan
đi qua con suối
đóng băng mấy tầng
rừng như đứng
chịu tang chung
giải khăn trắng tuyết
phủ choàng nhánh khô
   
còi tàu hụ
nhớ giang hồ
lên ga khuya lạnh
gió mờ mịt xa
Sông Mao qua
đến ga Truồi
than bay đốm sáng
tàu xuôi mấy chiều
  
người đi
bóng đổ liêu xiêu
đường trơn
tuyết đọng
đìu hiu
Tết rồi ...
-- ĐINH CƯỜNG (1939-2016). Virginia, Jan. 9, 2012 (VBDP I, tr. 66)



Tuyển tập Viết Bên Dòng Potomac Tập I & Tập II hiện đã lưu hành trên mạng. Tìm mua sách, xin vào:

https://www.lulu.com/shop   
gõ chữ "viet ben dong potomac"
 
Hoặc liên lạc mua sách qua Email: nuuminhnguyen@gmail.com
Điện thoại: (703) 608-8001.


Địa chỉ:
7217 Belinger Ct., Springfield, VA 22150.
ẤN PHÍ: 70 USD
Cho 1 bộ (gồm 2 cuốn có hộp cover + cước phí)



NHỮNG VẾT THƯƠNG TRONG HOÀI NIỆM
sơn dầu trên bố 20” X 16”, thực hiện tháng 12 năm 2016,
tranh Trương Vũ

 

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

686 . NGUYỄN MINH NỮU Huy Trâm và Những Hàng Châu Ngọc trong Văn Chương Việt Nam

 NGUYỄN MINH NỮU Huy Trâm và Những Hàng Châu Ngọc trong Văn Chương Việt Nam



Huy Trâm tên thật là Nguyễn Hồng Nhuận Tam  sinh năm 1937 tại Nam Định và mất tối Thứ Ba, 20 Tháng Mười Hai, 2017, tại bệnh viện Garden Grove, hưởng thọ 80 tuổi, vì bệnh ung thư phổi. Khi ông mất, để lại 28 tác phẩm đã xuất bản, Tác phẩm cuối cùng là một tập truyện ngắn  Dù Có Xa Xôi, xuất bản trước khi ông từ trần không lâu.

Tác phẩm được nhắc tới khi nói đến Huy Trâm là Những Hàng Châu Ngọc Trong Văn Chương Việt Nam Hiện Đại. Nhà thơ Du Tử Lê đã ghi nhận về tác phẩm này như sau:

“Tới đầu thập niên 1960, ông đã có nhiều tác phẩm xuất bản, như tập truyện “Chiều Quê Hương” (XB năm 1963), hay “Lòng Chưa Dâu Biển” (thơ, XB năm 1967).

Tuy nhiên, Huy Trâm không được đám đông biết tới nhiều. Một năm sau, năm 1969 tác phẩm nhận định văn học “Những Hàng Châu Ngọc Trong Thi Ca Hiện Ðại” của ông, được trao giải thưởng văn chương toàn quốc bộ môn biên khảo, tên tuổi Huy Trâm mới thực sự được văn giới và dư luận chú ý.

“Những Hàng Châu Ngọc Trong Thi Ca Hiện Ðại,” gọi tắt là “Những Hàng Châu Ngọc” (NHCN) là một tuyển tập ghi nhận những cảm nghĩ riêng của họ Nguyễn về tiến trình thi ca trên dưới nửa thế kỷ (tính tới cuối thập niên 1960).

Ở giai đoạn thơ Tiền Chiến, người đọc thấy ông đề cập tới thơ của những nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Bàng Bá Lân, v.v… Với dòng thi ca miền Nam (sau cuộc di cư 1954), người đọc thấy ông nhắc tới thơ của các tác giả như Ðinh Hùng, Tạ Ký, Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Quách Thoại, Nguyễn Ðức Sơn, Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Tuệ Mai, Hoài Khanh, v.v…

Tác phẩm vừa kể có tất cả 7 chương; chia theo những chủ đề như: “Thiên nhiên nguồn cảm hứng vô tận,” “Tình yêu và niềm đau khổ,” “Thi ca với mùa màng cùng thời tiết”; “Trở lại thời xưa,” “Những buổi chiều trong thơ”; “Trên sông khói sóng,” “Những đoạn hùng ca”; và, phụ lục “Ðêm vào lòng người.”


Nhà văn Huy Trâm (1937 - 2017)

Tôi và Huy Trâm là thân thuộc, thân phụ của Huy Trâm là anh cùng cha khác mẹ với tôi, Nhưng Huy Trâm lớn hơn tôi một con giáp. Khi tôi còn là học sinh lớp đầu tiên trung học, thì Huy Trâm đã là người thành danh trong sinh hoạt văn chương, một nghệ sĩ đa tài từ thơ văn nhạc và cả hội họa.

685 . TIỂU LỤC THẦN PHONG - Lão Thi Sĩ với Mụ Vợ Tào Khang

                                                                                                         


LÃO THI SỸ VÀ MỤ VỢ TÀO KHANG

Thơ vừa đăng chưa ráo mực

Mụ vợ già lập tức xỉa xói, chì chiết:

Rõ vớ vẩn thơ thẩn dở hơi

Cám lợn còn không có húp

Khổ thân gái già này vớ phải lão chồng suốt ngày tự sướng

 

Lũ thương gia, nghiệp chủ, con buôn:

Thơ mày không đáng một xu

Nhuận bút cả năm chẳng bằng một lần tao bao gái

Thời đại trí tuệ nhân tạo

Bấm một phát thơ tuôn ra ào ào

 

Bọn bò đỏ rần rần trên mạng ảo

Chụp mũ, chửi bới, mạ lỵ… bằng ngôn từ mất dạy:

Phản động, bêu xấu quan quyền, phá hoại quốc gia…

Gã nhà thơ giật mình chột dạ:

Ta ư?

Yêu còn không hết lòng dạ đâu đem phản?

Quốc gia nào?

Sao lẫn lộn với chuồng bò, lồng son, xích đỏ…

Mẹ kiếp tay cán bộ

Lương ba cọc ba đồng đánh bạc bảy triệu đô

Biệt phủ, biệt thự, ngai rồng, sập gụ…

Của cải bao la, tài khoản nước ngoài

Quân an ninh mạng ngày đêm rình mò theo dõi

Từng chữ, từng câu kiểm duyệt ngôn lời

Đe nẹt gô cổ, đầu gấu đánh trong trại giam cầm

Mụ vợ già rền rỉ ca cẩm:

Cắn cơm cắn cỏ lạy đức ông chồng

Đừng viết nữa kẻo mang tai họa

Chúng sẽ đập vỡ cái máng lợn nhà tôi

Lão thi sĩ đầu bù tóc rối:

Ơ hay nhỉ, bà mở mắt xem sẽ biết

Xưa nay tôi nào có viết bậy, viết sai

Báo chí đăng ông cán bộ danh giá giết người phân xác

Mới hôm qua còn khen thưởng tuyên dương

Ông nọ bà kia toàn những tấm gương

Huy hiệu, huy chương đỏ khé

Cạp như hạm làm như mèo mửa

Đăng đàn ba hoa, khoác lác, nói xàm

 

Ơ bọn bò đỏ!

Quốc gia nào?

Quốc gia của ai đây?

Mấy mươi năm bầy hầy, lẹt đẹt

 

Mụ vợ già cong cớn lên khóc thét

Ông làm phúc tha cho mẹ con tôi

Tuyên giáo đã đe, đã dọa nhiều rồi:

Đường một chiều cấm người đi ngược

Lơ ngớ ấm ớ, chúng đánh không trượt phát nào

Ông muốn viết cứ việc khen vào

Thổi ống đu đủ đưa chúng lên mây xanh

Tâng bốc, phong chúng thành thần thành thánh

Dù hai nhăm rõ mười đỹ điếm lưu manh

Ông có thấy những ông kẹ bà chằng

Cứ đôn lên anh minh lãnh tụ

Mặc trứng ấp một lò cái ngữ ấy thậm ngu

Ông hãy phóng bút ca bọn ấy thiên tài vĩ đại

Đặng tôi còn húp cám ngày mai

Con đường dài

Cứ viết theo ngón tay chỉ lối tiến lên thiên đường

 

Lão thi sỹ rụt cổ so vai

Mặt nhàu nhĩ thân hình rúm ró

Phút sảng thần nhìn vợ

Có ai ngờ, bất chợt hấp háy mắt long lanh:

Trời, mụ vợ như thiên thần khai sáng

Mụ quả thật xứng đáng là lãnh tụ vinh quang

Ta có mắt như đui bấy lâu nay chẳng thấy.

 

Lão thi sỹ vỗ đùi cười sảng khoái

Mụ vợ tấm mẳn tào khang với cái máng lợn ăn

Có khí chất lãnh đạo thiên tài thượng đẳng.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 1225