Nguyễn Thị Thanh Bình sinh tại
Huế, sau khi đất nước chia đôi. Cộng tác với hầu hết các tạp chí văn học ở hải
ngoại. Nguyên phụ tá nhà văn chủ bút Xuân Vũ của Nguyệt San Non Nước, và đã
cùng Hàn Song Tường, GS Đặng Phùng Quân chủ trương tạp chí Gió Văn.
Đã xuất bản: Ở Đời Sống Này (Tập truyện, Đại Nam 1989), Giọt Lệ Xé Hai (Tiểu
thuyết, Văn Khoa 1991), Cuối Đêm Dài (Tập truyện, An Tiêm 1993), Trốn Vào Giấc
Mơ Em (Tập thơ, Thanh Văn 1997), Dấu Ấn (Tập truyện, Văn Mới 2004), Giọt Lệ Xé
Hai (Truyện dài, tái bản, Người Việt Books, 2018), Thần Thánh Không Biết Yêu
(Người Việt Books, 2018), Nhật Ký Của Những Mảnh Vỡ (Thơ, Người Việt Books,
2018). Những Suy Nghĩ Về Ngày 30 Tháng 4 (Phỏng Vấn 36 VNS trí thức trong và
ngoài nước, Nhân Ảnh 2021), Buồn Tôi Tháng Tư (Thơ, Nhân Ảnh 2025).
Góp mặt tiêu biểu trong Tuyển Tập 23 Người Viết Sau 75 (Văn Nghệ, 1988), 20
Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (Đại Nam, 1995), Tuyển Tập Thơ Văn Hải Ngoại (Văn
Mới, 2000), Một Phần Tư Thế Kỷ thi Ca Việt Nam Hải Ngoại (thi tuyển Võ Đức
Trung), Đối Thoại 13 Văn Thi Sĩ Nói Về Mình và Văn Học (do Vĩnh Phúc thực hiện,
Văn Nghệ 2001), Thông Điệp Hồng (Hồ Trường An giới thiệu, Làng Văn 1990), Bảy Sắc
Cầu Vồng (Hồ Trường An biên soạn, Văn Mới 1993), 10 Khuôn Mặt Văn Chương (bút
khảo Hồ Trường An, Tiếng Quê Hương 2018).
Chân dung Nguyễn Thị Thanh Bình
Tranh Nguyễn Trọng Khôi
Hết năm Con Rồng trôi qua, rồi
năm Con Rắn trườn tới, và rồi cũng nghe lại những nhớ nhung ngày cũ đón chờ một
năm mới vọng về. Có điều với những người con xa xứ, nhiều phần chúng ta đón
xuân trong hồn xác pháo cũ ký ức. Mùa Xuân 2025 lại đánh dấu 50 năm cái Tết tha
hương, 50 năm tưởng niệm ngày Sài Gòn bị cưỡng chiếm vùi tên, và như thế tôi
lại tự hỏi có phải chính mình cũng đã bị đánh mất nửa phần linh hồn ấy. Rồi lại
chợt nhớ đến những khuôn mặt, những chân dung của những người-muôn-năm-cũ.
Đặc biệt tôi đang nghĩ về những
hồn-ở-đâu bây giờ của những văn nhân thi sĩ lưu vong. Trong đó hình ảnh đậm
chất “lưu vong” nhất trong tôi có lẽ là nhà văn Mai Thảo của chúng ta.
Không hẳn vì Mai Thảo vẫn thích
đọc tờ Le Monde, Pháp, thích uống rượu Cognac Mỹ thay vì rượu đế, thứ tên gọi
nước mắt quê hương dân dã. Cũng như hình ảnh của một Mai Thảo chừng như lạc
lõng cô đơn, ngồi chờ xe buýt dừng lại ở giữa phố đông người xa lạ Bolsa, Cali.
Phải nói là từ một mùa thu xa
lắm, mỗi năm Mai Thảo lại có dịp về Miền Đông thăm họa sĩ Ngọc Dũng, là một
thành viên của Sáng Tạo, và lần nào tôi cũng tha hồ được kéo đến hầu chuyện,
hầu rượu. Kỳ thực tôi đã có cơ may được họa sĩ Ngọc Dũng vẽ bìa cho tập truyện
đầu tay Ở Đời Sống Này, với lời Tựa đầy ưu ái của Mai Thảo năm 1989 (Đại Nam
xuất bản).
Còn nhớ lần đầu khi tôi chở Mai
Thảo đến một hiệu sách trong vùng (thời đó nơi tôi ở may mắn thay có tới một
tiệm sách thuần sách của GS. Đặng Đình Khiết là Thế Hệ, và một tiệm nữa là
Alpha của nhà thơ Trần Phùng Linh Duyên không chỉ chuyên trị sách vở mà còn
thêm hàng hóa khác), tôi cũng khá ngạc nhiên khi chứng kiến một nhà văn lẫy
lừng có nhiều tác phẩm best seller thời Văn Học Miền Nam, và lúc này hiện ra
trước mắt tôi là một ông chủ báo, một tờ báo văn học như Văn được tục bản ở hải
ngoại và đang có con số 700 độc giả xa gần. Nơi cái được xem như tòa soạn trị
sự là một chung cư nhỏ, có Mai Thảo cần cù lẫn thích thú viết tên từng độc giả
trên mỗi phong bì, rồi dán gói và gửi đi…
Nguyễn Thị Thanh Bình - Mai Thảo
Mai Thảo với khuôn mặt khá điềm
tĩnh nhưng lạnh lùng khi gõ (nhẹ) tay lên bàn và nói với chủ tiệm: “Mấy anh
thanh toán tiền báo cho tôi đi chứ!”. Vậy là phía chủ tiệm Alpha luống cuống
phân trần sự chậm trễ gởi tiền về tòa soạn Văn ở Cali thanh toán cho Mai Thảo
uống rượu.
Cũng có năm tôi được gặp cả vợ
chồng nhạc sĩ Cung Tiến, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền tại căn nhà nhiều tranh và
kính của họa sĩ Ngọc Dũng ở thành phố Cánh Đồng Xanh, tên của nhà phê bình văn
học Đặng Tiến ở Pháp đặt cho chữ Springfield, nơi tôi cũng từng ở.
Kể cũng ấm lòng, khi văn nghệ
sĩ dù mỗi người một nơi, người từ Minnesota, người từ Cali, người từ Virginia
lại tụ tập gặp gỡ chỉ để được cụng với nhau ly rượu thân thiết, hâm nóng lại
chút câu chuyện thời xưa cũ trong một thoáng ngắn ngủi.
Mai Thảo lại trở về Cali trong
khu chung cư dành cho người già, trong căn phòng nhỏ chỉ kê đủ cái bàn viết mà
Mai Thảo vẫn gọi là bàn-viết-lữ-thứ, một vài bức tranh chân dung trên tường và
chiếc giường cá nhân nhỏ nhưng đầy rượu mạnh được kê sát dưới chân giường.
Nhà văn suốt đời độc thân tại
chỗ này vẫn thà nhịn đói để uống, nên có lẽ vì thế mà cuối đời ông mất vì bệnh
suy dinh dưỡng nhiều hơn là sự tàn phá của lá gan.
Nhớ thuở sinh tiền, Mai Thảo
vốn rất yêu mùa thu diễm tuyệt của Virginia, nên thường ông chọn có mặt vào mùa
thu, khi “trời đất mang mang ai người tri kỷ” và ông một thân một mình
nơi xứ lạ quê người cũng hệt như một người rượt đuổi những chiếc là vàng diễm
ảo rồi bỗng đi lạc giữa rừng thu.
Đi lạc và Mai Thảo không còn
đường để trở về nơi chốn mà ông đã bị ruồng bỏ ra đi. Nơi mà trong những năm
cần tồn tại sống sót, ông đã phải thay đổi chỗ ở nhờ những người xung quanh
giúp đỡ giấu giếm và cuối cùng một nhà văn vượt biên lưu lạc cũng là nhờ vào
lòng che chở của những người vốn yêu mến văn chương ông.
Trong đó có nhà văn Nhã Ca đã
có lần cho Mai Thảo phi thân lên mái nhà, và trốn vội trốn kỹ đến nỗi bỏ quên
đôi dép dưới sàn nhà, khi người phường khóm tạt ngang lục soát bất ngờ.
Nơi mà nếu ở lại, ông không
những lãnh án tù cao nhất cho thứ tên gọi trùm biệt kích văn hóa, chưa kể làm “công
cụ” cho Mỹ vì có lúc ông đã được tài trợ của cơ quan USIS và theo nhà báo, nhà văn
Uyên Thao kể, để viết cuốn “Ánh Sáng Miền Nam” ca tụng Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn
Đông của chế độ cũ.
Số phận Mai Thảo vào 1975 dường
như còn có lúc bị loan thông báo trên Đài Phát Thanh Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam là bản án tử hình khiếm diện, với những cáo trạng kết tội là
“làm việc Cách Mạng, chống lại nhân dân”.
Phải công nhận mệnh số của
những Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Xuân Đài…,
cũng như những văn nghệ sĩ sớm làm kiếp lưu vong hẳn là trời xanh có mắt, cao
số. Nếu không, định mệnh có thể gõ cửa như nhà báo nhà văn Chu Tử, thì dù không
bị gọi xử tử vắng mặt, tác giả cuốn Yêu nổi tiếng cũng phải lãnh đủ một trái
B-40 trên tàu Thương Tín khi đã ra tới cửa bể.
Đó là lý do, đã có rất nhiều
lần buồn buồn tôi vẫn hỏi Mai Thảo bao giờ ông về thăm lại quê hương. Vào lúc
ngà ngà say, mắt của ông đỏ hoe như những giọt rượu còn sót lại dưới đáy cốc và
dã dượi: “Chẳng bao giờ. Không bao giờ.”
Hình như chỉ duy nhất một lần,
lúc Mai Thảo chưa súc miệng, điểm tâm bằng chút rượu nào, ông có nói đại khái
nếu một ngày nào đó, đất nước được trả lại tự do thì chúng ta sẽ quay về.
Tiếc là tôi quên hỏi ông về hai
chữ tự do liệu có đồng nghĩa với tự do in ấn, không bị lưỡi hái kiểm duyệt, tự
do nhập khẩu thứ “văn hóa đồi trụy”, tự do giao lưu hai chiều, hoặc chỉ đơn
thuần là tự do trên sự chân thật của ngòi bút…
Còn bây giờ? Vậy mà mới đó Mai
Thảo đã bỏ “cuộc chơi” 26 năm, hơn một phần tư thế kỷ thân thế.
Thử tưởng tượng cái dáng hư hao
gầy cao của ông đã có những buổi sáng, buổi chiều hay đêm tối chỉ biết lặng
thầm với chiếc bóng và giải sầu bằng rượu mạnh, và giả thử ông không dựng lại
được một bàn viết nơi quê người cho những cây bút trẻ, hoặc không có chữ nghĩa
để tiêu phí những khoảng trống ghê rợn của riêng mình thì chắc ông cũng đã ngã
quỵ sớm hơn rồi.
Hẳn nhiên văn xuôi của Mai Thảo
vốn óng ả trau chuốt, có chất thơ, nên chẳng trách cuối đời ông lại trở về với
bản chất và con người Thơ của mình. Vì vậy, tập thơ duy nhất “Ta Thấy Hình
Ta Những Miếu Đền” của Mai Thảo là những khoảng trống khắc khoải trong cùng
thẳm của tâm hồn thi sĩ. Những khoảng trống không thể lấp đầy bằng bất cứ thứ
gì, ngoại trừ Thơ, nên ông tuôn chảy được những vần thơ hay, đầy cảm xúc:
Sớm ra đi sớm hoa không biết
Đêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in cái bóng gầy
Thơ của ông còn được sinh ra như
là để làm chứng nhân cho chính cái bóng gầy bên góc tường cô độc kia. Và rồi
đâu đó ẩn hiện hình ảnh của một Mai Thảo vượt biên vượt biển, khi ông lặng lẽ
viết tự sự trong Ngọn Hải Đăng Mù, hoặc trả trôi mình bằng những câu thơ dằng
dặc buồn:
Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm
Đụng cây neo lạnh buốt bên mình
Mới nhớ mình ngồi đó suốt đêm qua
Giữa nghìn con sóng tới
Giữa ngần ấy sóng xa
Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta….
Trong tập thơ được đề tặng, Mai
Thảo viết “Thơ tôi làm chơi thôi. Đọc cũng trong tinh thần ấy!”
Chỉ “chơi” thôi mà đã tận tuyệt
như vậy. Mà có lẽ như thế thật. Cách chơi của một thi sĩ đúng nghĩa hẳn có
khác. Chơi hết mình. Không chơi không được!
Mai Thảo có gần 50 tác phẩm văn
xuôi, và sách truyện của Mai Thảo đã được lưu trữ tại các thư viện Mỹ, tuy
nhiên vẫn chưa có một dịch giả nào làm công việc dịch thuật cho một tác giả nổi
tiếng như ông, cũng như sách truyện của những tác giả thuộc về văn học Miền Nam
vẫn không được phục hồi lại. Có muốn đọc thì phải tự truy lùng, tìm đọc.
Dù sao cũng may mắn trong dòng
người di tản đã mang theo được những nhà văn nhà thơ nổi bật để họ có thể tạo
dựng lại chiếc cầu nối bằng những con đường tạp chí, báo chí truyền thông.
Những tạp chí như Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiền, Lê Tất Điều xuất hiện 1978,
Văn do Mai Thảo tục bản, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Làng Văn, Khởi Hành, Thời
Tập, Văn Uyển, Chủ Đề, Trăm Con, Việt,
Sóng Văn, Gió Văn… và duy nhất một tạp chí chuyên về Thơ của chủ soái Tân Hình
Thức Khế Iêm, là những nhiệt hứng đã mở đường cho Văn Học Hải Ngoại được xem
như một gạch nối của những đứt đoạn Văn Học Miền Nam sau 75.
Ngoài ra nơi tôi ở vùng Hoa
Thịnh Đốn cũng không thiếu những tạp chí kiểu của mọi người trong gia đình như
Văn Nghệ Tiền Phong của Hồ Anh, Phụ Nữ Diễn Đàn với Chữ Bá Anh, na ná như tờ
Hồn Việt lâu năm ở Cali của nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan (chồng ca sĩ Khánh Ly).
Xin mở một ngoặc đơn nhỏ ở đây:
Văn Học Hải Ngoại hay có người còn gọi là văn học ngoài nước để phân biệt với
văn học trong nước và một cách gọi hiếm hoi khác là văn học quốc nội, nghe có
vẻ nặng nề như cách sử dụng trên những diễn đàn chính trị của cái gọi là tiếng
nói quốc nội, quốc ngoại chẳng hạn… Dù với cách gọi nào đi nữa, người đọc cũng
dễ dàng nhận ra sự khác biệt, và không mấy tương đồng. Chính cái không khí, sự
tích lũy văn chương, chất liệu sáng tác, đề tài chiêm nghiệm, cách tiếp nhận
văn học quốc tế… đã làm thành những tương phản với nền văn học hiện thực XHCN.
Ở đây tôi muốn nói đến tinh
thần yêu ngôn ngữ Việt, tiếng Việt, một khi bị bứng ra khỏi gốc rễ lãnh thổ của
một dân tộc với 4000 năm văn hiến. Đặc biệt không hẳn là “ra đi mang cả quê
hương” của những phận đời lưu vong, mà chính là ước nguyện thầm kín được bảo
tồn tính chất nhân bản, nhân văn, độc lập, tự do, khai sáng của một tâm thức
dân chủ đã được sinh ra dù vẫn còn non trẻ.
Khỏi nói ai cũng hình dung được
Văn Học Hải Ngoại ở giai đoạn này phải đối diện với tình trạng báo giấy thật ảm
đạm và sinh hoạt văn học còn tệ hơn buổi chợ chiều. Chúng ta vừa ở trong thời
kỳ công nghệ, khi mỗi người đều có thể là một công dân mạng, một blogger, lại vừa
bị giới say mê đọc sách tiếng Việt giờ cũng đã không còn trẻ nữa, hoặc đã mắt
mỏi, già nua.
Những nhà văn lưu vong xuất
thân từ Văn Học Miền Nam trước 75 hầu như đã không còn nữa. Những Mai Thảo, Võ
Phiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Túy Hồng, Thanh Nam… cũng khuất
bóng quá lâu. Mới năm nay, có nhà thơ Viên Linh cũng ra đi ở tuổi 86, trong một
viện dưỡng lão ở Virginia.
Tôi thương họ một điều là đến
cuối đời vẫn không tròn được ước nguyện về thăm quê hương lần cuối. Dù hẳn
nhiên không ai có thể bắt gặp lại được tâm hồn của mình chiều hôm ấy. Bao nhiêu
nước đã chảy mòn dưới chân cầu. Chúng ta không thể tắm hai lần trong một dòng
sông.
Biết vậy nhưng tôi vẫn rưng
rưng với một Mai Thảo, khi nằm trên giường bệnh ở một nhà thương Garden Grove,
Cali và đã dùng bút đàm với nhà thơ Trần Dạ Từ, với câu hỏi làm nhức tim mọi
người có mặt là bao giờ và cho đến bao giờ người ta mới có thể cho ông về thăm
lại con đường kỷ niệm Ký Con ở quê nhà, nơi Sài Gòn thành phố cũng đã mất tên.
Nguyễn Thị Thanh Bình