Thứ Tư, 2 tháng 7, 2025

Cập nhật tiến độ thực hiện cuốn sách "Viết Bên Dòng Potomac 1975-2025".

Cho đến hôm nay, 2 tháng 7 năm 2025, chúng tôi đã hoàn tất bản thảo cuốn sách “Viết Bên Dòng Potomac 1975-2025”.

Tổng cộng có 98 tác giả, gồm 86 khuôn mặt văn nghệ vùng Hoa Thịnh Đốn và 12 người bạn phương xa. Sách đã chuyển qua phần dàn trang, trình bày và sẽ in xong vào cuối tháng 7. Ngày ra mắt sách sẽ đúng như dự định 16.8.2025  tại Hội Trường  4701 Arlington Blvd, Arlington , Virginia .

 Dưới đây là danh sách các tác giả trong cuốn sách.

86 KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ
VÙNG HOA THỊNH ĐỐN
 
Bạch Cúc

Bạch Mai
Bùi Bảo Trúc
Cao Nguyên
Cung Thị Lan
Đặng Đình Khiết
Đinh Cường
Đinh Hùng Cường
Đinh Trường Chinh
Đinh Trường Giang
Đinh Tử Bích Thúy
Đinh Từ Thức
Đỗ Trảng Mỹ Hạnh
Đồng Sa Băng
Giang Hữu Tuyên
Hà Bỉnh Trung
Hoài Ziang Duy
Hoàng Hải Thủy
Hoàng Phượng
Hoàng Song Liêm
Hoàng Thị Bích Ti
Hoàng Xuân Sơn
Hồng Thủy
Khê Kinh Kha
Lãm Thúy
Lê Đức Luận
Lê Mộng Hoàng
Lê Mỹ Hoàn
Lê Thị Nhị
Lê Thị ý
Lê Thiệp
Lưu Nguyễn Đạt
Ngô Minh Trí
Ngô Tằng Giao
Ngô Vương Toại
Nguyễn Kỳ Phong
Nguyễn Lân
Nguyễn Mạnh Hùng
Nguyễn Minh Diễm
Nguyễn Minh Nữu
Nguyễn Ngọc Bích
Nguyễn Quang
Nguyễn Quang Dũng
Nguyễn Thế Toàn
Nguyễn Thị Hoàng Bắc
Nguyễn Thị Hồng Vân
Nguyễn Thị Ngọc Dung
Nguyễn Thị Thanh Bình
Nguyễn Tú
Nguyễn Tường Giang
Nguyễn Tường Nhung
Nguyễn Xuân Hoàng
Phạm Bá
Phạm Cao Hoàng
Phạm Nhuận
Phạm Thành Châu
Phan Khâm
Phan Tấn Hải
Phan Thị Ngôn Ngữ
Phùng Nguyễn
Phương Thảo Huyền

Sơn Tùng
Tạ Quang Khôi
Tạ Quang Tuấn
Thái Thụy Vy

Thiên Thảo Nguyễn
Trần Anh Chương
Trần Đại Bản
Trần Nghi Hoàng
Trần Ngọc Toàn
Trần Quốc Bảo
Trần Thị Thanh Minh
Trần Uyên Thi
Trương Vũ
TT - Thái An
Uyên Thao:
Vi Khuê
Viên Linh
Vĩnh Điện
Võ Đình
Võ Phú
Vũ Hối
Vũ Thất
Vương Đức Lệ
Ý Nhi Nguyễn Thị Dung
Ỷ Nguyên
 
NHỮNG NGƯỜI BẠN PHƯƠNG XA
 
Duyên
Đặng Mai Lan
Đổ Thanh Tùng
Hồ Đình Nghiêm
Lê Chiều Giang
Minh Ngọc
Nguyễn Đức Quang
Nguyễn Quyết Thắng
Nguyễn Thụy Đan
Nguyễn Xuân Thiệp

Trần Hoài Thư
Trần Thị Nguyệt Mai

519 ."VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 96: Thơ Bạch Mai..

 

Trong ảnh: Bạch Mai *1951-2025)

Bạch Mai (Hoàng Bạch Mai) sinh năm 1951 ở Bến Tre, là một khuôn mặt thân quen trong những sinh hoạt văn nghệ  vùng Hoa Thịnh Đốn, mà bạn bè vẫn vui miệng gọi là Bạch Mai Ngâm Sĩ, cũng như trước đó có một giọng ngâm nam độc đáo khác là Trần Lãng Minh. Có lẽ vì vậy mà Bạch Mai rất yêu thơ và cũng sở hữu cho mình một tiếng hát ngọt ngào. Tác giả tự xuất bản tuyển tập thơ Hoa Tình Nở Muộn và đã ra mắt sách rất xôm trò. Tác giả đã qua đời năm nay 2025. 


Chân dung Bạch Mai - Tranh Võ Đình

THƠ BẠCH MAI
 
HỒNG NHAN EM
 
Người bảo hồng nhan là bạc phận
Em soi gương chẳng thấy nhan sắc hồng
Mắt buồn quá lại tê dại ngóng trông
Môi cũng nhạt màu mất máu chết trân
 
Một tình yêu không trọn bởi xa Người
Mắt môi ấy giờ ở đâu ai biết
Chiều hôm rồi Người cứ đi mải miết
Em kiếm phờ người tắt cả nụ cười
 
Người là ai mà tôn thờ hình bóng
Em tuổi gì mà dám bắt hình dong
Người cao như trời em thấp như đất
Em với tới đâu cũng là trầy trật
 
Cũng có lúc xin tình đừng ma nhập
Hồn ma em đã điên cuồng ôm ấp
Đừng khóc nữa mưa dẫu rơi tới tấp
Cũng có ngày tạnh khô không tim đập
 
THI SĨ VÀ GIAI NHÂN
 
Tôi đặt cho người danh xưng thi sĩ
Người cười bảo tôi chính là Nàng Thơ
Gặp ban ngày đêm tập làm thi sĩ
Rồi mất ngủ tóc bạc trắng phau phau
 
Lại đùa đùa vì ai mà bạc tóc
Thi sĩ tóc trắng hồn nhuốm mực đen
Màu mực buồn bóng tối phủ hồn thơ
Nhớ nước thương nhà Thơ bỗng bơ vơ
 
Thơ là gì sao VN mình yêu Thơ
Người già in thơ "Yêu Mãi Nghìn Năm" (Hà Bỉnh Trung)
Người trẻ hơn thì lại "Dường Như Tôi Ngại Nói Lời Yêu Em" (Nguyễn Đăng Tuấn)
Thơ đem tặng như lời thổ lộ tới ngàn sau
 
Rồi một hôm tôi hiểu lòng thi sĩ
Bởi lòng buồn tôi muốn giấu trong Thơ
Người thơ được yêu cũng giả bộ sầu bi
Thơ thất tình ngốn nhiều tim thiếu nữ...

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2025

518 ."VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 95: Thơ của Duyên.

Chân dung Duyên - Tranh Trương Vũ

Tên thật và cũng là bút hiệu. Sinh quán tại Nam Định. Vào Nam năm 1954. Định cư tại Michigan, Hoa Kỳ từ năm 1975. Bắt đầu viết từ năm 2014. Tập vẽ làm bookmarks từ hoa lá trong vườn để làm quà tặng bạn bè. Tháng 3 năm 2025, ra mắt tuyển tập thơ chung cùng 2 nhà thơ nữ Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh.
 
TRĂNG CÓ PHẢI TRĂNG
 
chiều phi trường
buồn tênh…
những ngọn đèn sắp tỏ
lấp lánh
mắt bạn bè
mừng vui khi gặp gỡ
sao có hạt lệ, rơi
những vòng khăn. quấn vội.
 
Qua khung cửa
chiều nay, trời rất xám
có vầng trăng. mỏng
khuất nơi nao
những ánh đèn
lấp lánh. sao đêm
họp thành chùm. sao
thân ái
về sum vầy
cùng vầng trăng. đêm nay.
 
Bạn bè gần. xa
nhiều thương nhớ…
kỷ niệm. đầy
buồn có? hay vui?
kể cho nhau nghe
những điều. chưa nói
lời nghẹn ngào
tiếng nói. hư hao
những vần thơ, còn ướt mực.
 
Nói gì đây
dòng nhạc đậm đà. tình
có tiếng đàn. rộn rã
ly vang đỏ, mừng nhau
sao một người… không đến?
 
Trăng chợt về bên cửa
lơ lửng bay… Chagall
đeo bên cánh phi cơ
ngộ nghĩnh. dễ thương chưa
mầu trăng. trong. buồn quá
trăng treo… một đoạn đời
chợt. ngưng
ở lại thôi
lui dần vào bóng tối
bỏ không gian. mịt mù
gia đình còn ngơ ngác
bè bạn. ngồi với ai.
 
Trăng lơ lửng. trăng treo
chỉ trăng. có phải trăng?
 
đêm 1.13.2016.
DCA airport
Tưởng nhớ anh Đinh Cường. Ngày cuối, tiễn đưa anh về cõi vô cùng.

517 ."VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 94 : đỗ thanh tùng đOC TRANH tRƯƠNG vŨ..

 

Chân dung Đỗ Thanh Tùng
Tranh Đinh Cường

Đỗ Thanh Tùng sinh ra và lớn lên tại Nam Việt nam. Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc, Sài Gòn trước năm 1975. Rời Việt nam bằng đường bộ, đến Hoa Kỳ đoàn tụ gia đình,1980. Sống và hành nghề kiến trúc tại tiểu bang Michigan.

ĐỌC TRANH TRƯƠNG VŨ

Tháng 8 năm 2024, sau gần nửa năm về lại Sài Gòn và “điều chỉnh cuộc sống” anh Trương Vũ “bắt đầu vẽ lại”, anh làm lại phác họa cũ của một “bức tranh chỉ mới phác họa vào 2024 rồi bỏ dở” và cuối cùng “hoàn tất bức tranh” rồi “đặt tên bức tranh là “Thu”.

Bức tranh “Thu” thể hiện khá rõ ràng nét đặc thù của Tranh (và Hội họa) Trương Vũ với cách bố cục hàn lâm, màu sắc chân phương khi anh sử dụng rất nhiều màu chính (vàng xanh đỏ...) ở nguyên trạng (có rất ít pha trộn với đen trắng để phụ thêm chiều sâu hay bóng sáng...), điều đó cũng thật dễ hiểu khi, có lẽ, nó giúp làm nên nét đơn thuần và sự trong sáng của bức tranh hơn (?).

“Thu” với bối cảnh là rừng cây hoa lá và một vạt nước trong xanh thực ‘tĩnh lặng’ kể cả một ‘động vật’ là con vạc (hay hạc, hay cò hay bồ nông...) đứng một chân ở thế bất động, nó có khác với cảnh tĩnh lặng đó ở mùa thu của những bức tranh thủy mặc trong hội họa cổ điển. Tuy bức tranh không có không gian cũng như thời gian nhưng dường như nó thể hiện một cảnh thu nào đó không phải ở Việt Nam, nó dường như là ở một vùng nào đó ở Đông Bắc Hoa Kỳ(?)...

Dù được vẽ theo cách của ‘trường phái’ nào, ‘biểu hiện’ hay ‘ấn tượng’, ‘trừu tượng’, ... bức tranh “Thu” khá giản dị và đẹp để được ‘Xem’. Tuy ngoài cái ‘biểu hiện’ đơn giản đó, vì nó là ‘tranh Trương Vũ vẽ’, nó khiến ta cần muốn ‘Đọc’ để được biết thêm cái ‘ấn tượng’ mà anh Trương muốn gửi gắm và trình bày... Cái ta muốn ‘Đọc’ đó, hình như chất chứa nơi bài viết đi kèm, “Thu năm nào?”, cùng với bức tranh “Thu”. 

THU, sơn dầu trên bố, 40”x 32”, 
phác hoạ 2023 (Virginia) hoàn tất 2024 (Sài Gòn)

517 .Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 93 : NGUYỄN TÚ - Định Mệnh.

 


Nguyễn Tú là tên thật. Sinh 21 tháng 5 năm 1950. Giáo viên tiểu học khi ở Việt Nam. Vượt biên định cư tại Mỹ năm 1983. Tốt nghiêp Dental tehnician năm 1986. Thành lập Trường Nail For You Academy (VA) năm 1988. Sáng tác thơ văn trên các tạp chí văn học địa phương và chủ trương một tuần báo ở vùng Hoa Thịnh Đốn. Thành lập chuỗi nhà hàng Pho Hot & Amazing Taste tại nhiều thành phố trong tiểu bang Virginia. Hiện định cư tại Annandale, VA 


ĐỊNH MỆNH.

Hai chữ này như đã hằn sâu trong tâm thức, hiển hiện vào số phận của mỗi đời người như thật như hư ! Không có gì tự nhiên mà có đều là do nhân duyên hội tụ mà thành.

Trên chuyến tàu du lịch này đủ moị thành phần sắc tộc ở khắp muôn phương vui thú hưởng thụ moị tiện nghi phục vụ, duyên nào họ cùng có mặt ở nơi đây trong lúc có bao nhiêu số phận khác vẫn hẩm hiu đau khổ thấp hèn! 

Cũng gọi là chuyến tàu mà trên biển đen phiêu bạt bao nhiêu số phận chưa biết về đâu, đói khát hiểm nguy vượt cạn! Cùng chung số phận với nhau, có người đến được bến bờ tương lai chờ đón, có người chọn biển làm mồ chôn hay tội tù lưu lạc! Phải chăng đó là "định mệnh" an bài cho mỗi một đời người?

Dường như moị việc đã được xếp đặt trước chúng ta chỉ lần lượt đi đến. Có thể thay đổi được chăng số phận của mỗi con người?

Ở đây thời gian đi nhanh qúa không hiểu tại sao! Đồng hồ vẫn tích tắc đều đặn mà ai cũng cảm tưởng  qúa nhanh .

Mới đây mà đã mấy mươi năm, những đứa con nay đã hơn tuổi mình thưở ấy khi đến đây nhìn các cháu nội ngoaị trưởng thành và biết mình già! May cho người biết sống an phận biết cảm thông không chấp nhất không than thân trách phận.

Những người cao tuổi gặp nhau chia sẻ, có khi trách móc than phiền, có khi cười xoà thông cảm rồi nhắc nhở nhau 3 quên 4 có 5 không.

Quên tuổi già, quên bệnh tật, quên hận thù... có gia đình, có nhà riêng, có baṇ tri kỷ... không bán nhà đi ở với con, không trông cháu chỉ thăm cháu, không ở cùng chỉ ở gần, không được từ chối khi con cho tiền dù nhiều hay ít, không can thiệp vào công việc cuộc sống riêng tư của con!.

Thật hợp lý phải không? Nếu hiểu được chân lý cuộc sống mình cũng nhẹ nhàng mà con cháu cũng được an vui.

Bí quyết sống hạnh phúc có khi thật đơn giản tùy nơi chúng ta có thấu hiểu và chấp nhận được hay không; có người may mắn đạt được trọn vẹn ba quên bốn có năm không , có vị phải ở chung với con cái trong hoàn  cảnh chung đụng sinh hoạt với dâu với rễ cả chính với con ruột của mình...

Những suy nghĩ, cách hành xử khác nhau tạo xung đột không thể tránh khỏi. Nếu nhìn sâu sẽ hiểu thấu sự việc thông cảm cho nhau. Thật ra đôi bên đều có tình thương với nhau mà cùng là một gia đình cùng một mái nhà.

Ba nổi khổ của đời người... cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tấn hội. Cứ luân hồi nhân quả trong cuộc sống đời thường... Vậy nên chúng ta phải sổng sao đây cho tròn ý nghĩa của hai chữ an vui.

Sinh hoạt thay đổi hoàn cảnh đổi thay làm sao để hòa hợp, thật ra bọn trẻ không phải hoàn toàn sai ở xã hội mới này. Họ có thể bày tỏ quan điểm ý kiến không như chúng ta ngày xưa sống trong gia đình với cha mẹ chỉ biết phải vâng lời, phải chấp nhận.

Tuy vậy con cái cũng phải cẩn trọng cách cư xử với cha mẹ để sau này không có những phút giây ân hận.

Luân hồi nhân qủa nhãn tiền, rồi các con sẽ già các cháu sẽ lớn...

Cảnh cũ tiếp diễn... Có khi hiểu được thì đã trễ.

"Hãy cho mẹ nụ cười khi còn sống
Hơn những bông hoa bên mồ khi mẹ không còn"

Chúng ta ở đây còn có nơi gọi là "nhà già" chỉ trong cái xã hội nhỏ này cũng có những liên quan tương phảnCó tủi buồn than trách khi các con gửi mình vào nơi không có người nhà, thăm viếng mỗi lúc một thưa dần thỉnh thoảng mới được rước về khi có những sinh hoạt đặc biệt. Có vị cảm nhận được sự an vui thanh thản bên cạnh những bạn cùng tuổi cùng phận, vui với những sinh hoạt tập thể hữu ích, họ hội nhập hoàn cảnh mới sau khi hoàn mãn bổn phận với gia đình an hưởng hiện tại .

Cuộc sống hiện nay qúa bận rộn cũng nên thông cảm cho các con phải gửi cha mẹ đến nơi có điều kiện chăm nom tốt an toàn hơn, cũng như các con cố gắng thu xếp không nên để cha mẹ già nuôi dạy các cháu. Khi mình còn nhỏ họ còn sức khỏe, đến nay đã chân mỏi gối mềm, có khi còn nhận những lời đau lòng thiếu thông cảm.

Cuối cùng để giải phương trình phức tạp gia đình này chỉ có mấy chữ: thông cảm, hiểu biết, từ ái và bao dung!

Chỉ là thô thiển luận bàn một chút "định mệnh"...

Mong sao mọi ngưòi đều được an vui.

NGUYỄN TÚ                               

                                 

 

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

516. "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 92: NGUYỄN THỊ THANH BÌNH Tìm lại những bến bờ.


Nguyễn Thị Thanh Bình sinh tại Huế, sau khi đất nước chia đôi. Cộng tác với hầu hết các tạp chí văn học ở hải ngoại. Nguyên phụ tá nhà văn chủ bút Xuân Vũ của Nguyệt San Non Nước, và đã cùng Hàn Song Tường, GS Đặng Phùng Quân chủ trương tạp chí Gió Văn.

Đã xuất bản: Ở Đời Sống Này (Tập truyện, Đại Nam 1989), Giọt Lệ Xé Hai (Tiểu thuyết, Văn Khoa 1991), Cuối Đêm Dài (Tập truyện, An Tiêm 1993), Trốn Vào Giấc Mơ Em (Tập thơ, Thanh Văn 1997), Dấu Ấn (Tập truyện, Văn Mới 2004), Giọt Lệ Xé Hai (Truyện dài, tái bản, Người Việt Books, 2018), Thần Thánh Không Biết Yêu (Người Việt Books, 2018), Nhật Ký Của Những Mảnh Vỡ (Thơ, Người Việt Books, 2018). Những Suy Nghĩ Về Ngày 30 Tháng 4 (Phỏng Vấn 36 VNS trí thức trong và ngoài nước, Nhân Ảnh 2021), Buồn Tôi Tháng Tư (Thơ, Nhân Ảnh 2025).

Góp mặt tiêu biểu trong Tuyển Tập 23 Người Viết Sau 75 (Văn Nghệ, 1988), 20 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (Đại Nam, 1995), Tuyển Tập Thơ Văn Hải Ngoại (Văn Mới, 2000), Một Phần Tư Thế Kỷ thi Ca Việt Nam Hải Ngoại (thi tuyển Võ Đức Trung), Đối Thoại 13 Văn Thi Sĩ Nói Về Mình và Văn Học (do Vĩnh Phúc thực hiện, Văn Nghệ 2001), Thông Điệp Hồng (Hồ Trường An giới thiệu, Làng Văn 1990), Bảy Sắc Cầu Vồng (Hồ Trường An biên soạn, Văn Mới 1993), 10 Khuôn Mặt Văn Chương (bút khảo Hồ Trường An, Tiếng Quê Hương 2018).



Chân dung Nguyễn Thị Thanh Bình
Tranh Nguyễn Trọng Khôi

Hết năm Con Rồng trôi qua, rồi năm Con Rắn trườn tới, và rồi cũng nghe lại những nhớ nhung ngày cũ đón chờ một năm mới vọng về. Có điều với những người con xa xứ, nhiều phần chúng ta đón xuân trong hồn xác pháo cũ ký ức. Mùa Xuân 2025 lại đánh dấu 50 năm cái Tết tha hương, 50 năm tưởng niệm ngày Sài Gòn bị cưỡng chiếm vùi tên, và như thế tôi lại tự hỏi có phải chính mình cũng đã bị đánh mất nửa phần linh hồn ấy. Rồi lại chợt nhớ đến những khuôn mặt, những chân dung của những người-muôn-năm-cũ.

Đặc biệt tôi đang nghĩ về những hồn-ở-đâu bây giờ của những văn nhân thi sĩ lưu vong. Trong đó hình ảnh đậm chất “lưu vong” nhất trong tôi có lẽ là nhà văn Mai Thảo của chúng ta.

Không hẳn vì Mai Thảo vẫn thích đọc tờ Le Monde, Pháp, thích uống rượu Cognac Mỹ thay vì rượu đế, thứ tên gọi nước mắt quê hương dân dã. Cũng như hình ảnh của một Mai Thảo chừng như lạc lõng cô đơn, ngồi chờ xe buýt dừng lại ở giữa phố đông người xa lạ Bolsa, Cali.

Phải nói là từ một mùa thu xa lắm, mỗi năm Mai Thảo lại có dịp về Miền Đông thăm họa sĩ Ngọc Dũng, là một thành viên của Sáng Tạo, và lần nào tôi cũng tha hồ được kéo đến hầu chuyện, hầu rượu. Kỳ thực tôi đã có cơ may được họa sĩ Ngọc Dũng vẽ bìa cho tập truyện đầu tay Ở Đời Sống Này, với lời Tựa đầy ưu ái của Mai Thảo năm 1989 (Đại Nam xuất bản).

Còn nhớ lần đầu khi tôi chở Mai Thảo đến một hiệu sách trong vùng (thời đó nơi tôi ở may mắn thay có tới một tiệm sách thuần sách của GS. Đặng Đình Khiết là Thế Hệ, và một tiệm nữa là Alpha của nhà thơ Trần Phùng Linh Duyên không chỉ chuyên trị sách vở mà còn thêm hàng hóa khác), tôi cũng khá ngạc nhiên khi chứng kiến một nhà văn lẫy lừng có nhiều tác phẩm best seller thời Văn Học Miền Nam, và lúc này hiện ra trước mắt tôi là một ông chủ báo, một tờ báo văn học như Văn được tục bản ở hải ngoại và đang có con số 700 độc giả xa gần. Nơi cái được xem như tòa soạn trị sự là một chung cư nhỏ, có Mai Thảo cần cù lẫn thích thú viết tên từng độc giả trên mỗi phong bì, rồi dán gói và gửi đi…


Nguyễn Thị Thanh Bình - Mai Thảo

Mai Thảo với khuôn mặt khá điềm tĩnh nhưng lạnh lùng khi gõ (nhẹ) tay lên bàn và nói với chủ tiệm: “Mấy anh thanh toán tiền báo cho tôi đi chứ!”. Vậy là phía chủ tiệm Alpha luống cuống phân trần sự chậm trễ gởi tiền về tòa soạn Văn ở Cali thanh toán cho Mai Thảo uống rượu.

Cũng có năm tôi được gặp cả vợ chồng nhạc sĩ Cung Tiến, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền tại căn nhà nhiều tranh và kính của họa sĩ Ngọc Dũng ở thành phố Cánh Đồng Xanh, tên của nhà phê bình văn học Đặng Tiến ở Pháp đặt cho chữ Springfield, nơi tôi cũng từng ở.

Kể cũng ấm lòng, khi văn nghệ sĩ dù mỗi người một nơi, người từ Minnesota, người từ Cali, người từ Virginia lại tụ tập gặp gỡ chỉ để được cụng với nhau ly rượu thân thiết, hâm nóng lại chút câu chuyện thời xưa cũ trong một thoáng ngắn ngủi.

Mai Thảo lại trở về Cali trong khu chung cư dành cho người già, trong căn phòng nhỏ chỉ kê đủ cái bàn viết mà Mai Thảo vẫn gọi là bàn-viết-lữ-thứ, một vài bức tranh chân dung trên tường và chiếc giường cá nhân nhỏ nhưng đầy rượu mạnh được kê sát dưới chân giường.

Nhà văn suốt đời độc thân tại chỗ này vẫn thà nhịn đói để uống, nên có lẽ vì thế mà cuối đời ông mất vì bệnh suy dinh dưỡng nhiều hơn là sự tàn phá của lá gan.

Nhớ thuở sinh tiền, Mai Thảo vốn rất yêu mùa thu diễm tuyệt của Virginia, nên thường ông chọn có mặt vào mùa thu, khi “trời đất mang mang ai người tri kỷ” và ông một thân một mình nơi xứ lạ quê người cũng hệt như một người rượt đuổi những chiếc là vàng diễm ảo rồi bỗng đi lạc giữa rừng thu.

Đi lạc và Mai Thảo không còn đường để trở về nơi chốn mà ông đã bị ruồng bỏ ra đi. Nơi mà trong những năm cần tồn tại sống sót, ông đã phải thay đổi chỗ ở nhờ những người xung quanh giúp đỡ giấu giếm và cuối cùng một nhà văn vượt biên lưu lạc cũng là nhờ vào lòng che chở của những người vốn yêu mến văn chương ông.

Trong đó có nhà văn Nhã Ca đã có lần cho Mai Thảo phi thân lên mái nhà, và trốn vội trốn kỹ đến nỗi bỏ quên đôi dép dưới sàn nhà, khi người phường khóm tạt ngang lục soát bất ngờ.

Nơi mà nếu ở lại, ông không những lãnh án tù cao nhất cho thứ tên gọi trùm biệt kích văn hóa, chưa kể làm “công cụ” cho Mỹ vì có lúc ông đã được tài trợ của cơ quan USIS và theo nhà báo, nhà văn Uyên Thao kể, để viết cuốn “Ánh Sáng Miền Nam” ca tụng Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông của chế độ cũ.

Số phận Mai Thảo vào 1975 dường như còn có lúc bị loan thông báo trên Đài Phát Thanh Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là bản án tử hình khiếm diện, với những cáo trạng kết tội là “làm việc Cách Mạng, chống lại nhân dân”.

Phải công nhận mệnh số của những Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Xuân Đài…, cũng như những văn nghệ sĩ sớm làm kiếp lưu vong hẳn là trời xanh có mắt, cao số. Nếu không, định mệnh có thể gõ cửa như nhà báo nhà văn Chu Tử, thì dù không bị gọi xử tử vắng mặt, tác giả cuốn Yêu nổi tiếng cũng phải lãnh đủ một trái B-40 trên tàu Thương Tín khi đã ra tới cửa bể.

Đó là lý do, đã có rất nhiều lần buồn buồn tôi vẫn hỏi Mai Thảo bao giờ ông về thăm lại quê hương. Vào lúc ngà ngà say, mắt của ông đỏ hoe như những giọt rượu còn sót lại dưới đáy cốc và dã dượi: “Chẳng bao giờ. Không bao giờ.”

Hình như chỉ duy nhất một lần, lúc Mai Thảo chưa súc miệng, điểm tâm bằng chút rượu nào, ông có nói đại khái nếu một ngày nào đó, đất nước được trả lại tự do thì chúng ta sẽ quay về.

Tiếc là tôi quên hỏi ông về hai chữ tự do liệu có đồng nghĩa với tự do in ấn, không bị lưỡi hái kiểm duyệt, tự do nhập khẩu thứ “văn hóa đồi trụy”, tự do giao lưu hai chiều, hoặc chỉ đơn thuần là tự do trên sự chân thật của ngòi bút…

Còn bây giờ? Vậy mà mới đó Mai Thảo đã bỏ “cuộc chơi” 26 năm, hơn một phần tư thế kỷ thân thế.

Thử tưởng tượng cái dáng hư hao gầy cao của ông đã có những buổi sáng, buổi chiều hay đêm tối chỉ biết lặng thầm với chiếc bóng và giải sầu bằng rượu mạnh, và giả thử ông không dựng lại được một bàn viết nơi quê người cho những cây bút trẻ, hoặc không có chữ nghĩa để tiêu phí những khoảng trống ghê rợn của riêng mình thì chắc ông cũng đã ngã quỵ sớm hơn rồi.

Hẳn nhiên văn xuôi của Mai Thảo vốn óng ả trau chuốt, có chất thơ, nên chẳng trách cuối đời ông lại trở về với bản chất và con người Thơ của mình. Vì vậy, tập thơ duy nhất “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” của Mai Thảo là những khoảng trống khắc khoải trong cùng thẳm của tâm hồn thi sĩ. Những khoảng trống không thể lấp đầy bằng bất cứ thứ gì, ngoại trừ Thơ, nên ông tuôn chảy được những vần thơ hay, đầy cảm xúc:

Sớm ra đi sớm hoa không biết
Đêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in cái bóng gầy

Thơ của ông còn được sinh ra như là để làm chứng nhân cho chính cái bóng gầy bên góc tường cô độc kia. Và rồi đâu đó ẩn hiện hình ảnh của một Mai Thảo vượt biên vượt biển, khi ông lặng lẽ viết tự sự trong Ngọn Hải Đăng Mù, hoặc trả trôi mình bằng những câu thơ dằng dặc buồn:

Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm
Đụng cây neo lạnh buốt bên mình
Mới nhớ mình ngồi đó suốt đêm qua
Giữa nghìn con sóng tới
Giữa ngần ấy sóng xa
Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta….

Trong tập thơ được đề tặng, Mai Thảo viết “Thơ tôi làm chơi thôi. Đọc cũng trong tinh thần ấy!”

Chỉ “chơi” thôi mà đã tận tuyệt như vậy. Mà có lẽ như thế thật. Cách chơi của một thi sĩ đúng nghĩa hẳn có khác. Chơi hết mình. Không chơi không được!

Mai Thảo có gần 50 tác phẩm văn xuôi, và sách truyện của Mai Thảo đã được lưu trữ tại các thư viện Mỹ, tuy nhiên vẫn chưa có một dịch giả nào làm công việc dịch thuật cho một tác giả nổi tiếng như ông, cũng như sách truyện của những tác giả thuộc về văn học Miền Nam vẫn không được phục hồi lại. Có muốn đọc thì phải tự truy lùng, tìm đọc.

Dù sao cũng may mắn trong dòng người di tản đã mang theo được những nhà văn nhà thơ nổi bật để họ có thể tạo dựng lại chiếc cầu nối bằng những con đường tạp chí, báo chí truyền thông. Những tạp chí như Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiền, Lê Tất Điều xuất hiện 1978, Văn do Mai Thảo tục bản, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Làng Văn, Khởi Hành, Thời Tập, Văn Uyển, Chủ Đề,  Trăm Con, Việt, Sóng Văn, Gió Văn… và duy nhất một tạp chí chuyên về Thơ của chủ soái Tân Hình Thức Khế Iêm, là những nhiệt hứng đã mở đường cho Văn Học Hải Ngoại được xem như một gạch nối của những đứt đoạn Văn Học Miền Nam sau 75.

Ngoài ra nơi tôi ở vùng Hoa Thịnh Đốn cũng không thiếu những tạp chí kiểu của mọi người trong gia đình như Văn Nghệ Tiền Phong của Hồ Anh, Phụ Nữ Diễn Đàn với Chữ Bá Anh, na ná như tờ Hồn Việt lâu năm ở Cali của nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan (chồng ca sĩ Khánh Ly).

Xin mở một ngoặc đơn nhỏ ở đây: Văn Học Hải Ngoại hay có người còn gọi là văn học ngoài nước để phân biệt với văn học trong nước và một cách gọi hiếm hoi khác là văn học quốc nội, nghe có vẻ nặng nề như cách sử dụng trên những diễn đàn chính trị của cái gọi là tiếng nói quốc nội, quốc ngoại chẳng hạn… Dù với cách gọi nào đi nữa, người đọc cũng dễ dàng nhận ra sự khác biệt, và không mấy tương đồng. Chính cái không khí, sự tích lũy văn chương, chất liệu sáng tác, đề tài chiêm nghiệm, cách tiếp nhận văn học quốc tế… đã làm thành những tương phản với nền văn học hiện thực XHCN.

Ở đây tôi muốn nói đến tinh thần yêu ngôn ngữ Việt, tiếng Việt, một khi bị bứng ra khỏi gốc rễ lãnh thổ của một dân tộc với 4000 năm văn hiến. Đặc biệt không hẳn là “ra đi mang cả quê hương” của những phận đời lưu vong, mà chính là ước nguyện thầm kín được bảo tồn tính chất nhân bản, nhân văn, độc lập, tự do, khai sáng của một tâm thức dân chủ đã được sinh ra dù vẫn còn non trẻ.

Khỏi nói ai cũng hình dung được Văn Học Hải Ngoại ở giai đoạn này phải đối diện với tình trạng báo giấy thật ảm đạm và sinh hoạt văn học còn tệ hơn buổi chợ chiều. Chúng ta vừa ở trong thời kỳ công nghệ, khi mỗi người đều có thể là một công dân mạng, một blogger, lại vừa bị giới say mê đọc sách tiếng Việt giờ cũng đã không còn trẻ nữa, hoặc đã mắt mỏi, già nua.

Những nhà văn lưu vong xuất thân từ Văn Học Miền Nam trước 75 hầu như đã không còn nữa. Những Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Túy Hồng, Thanh Nam… cũng khuất bóng quá lâu. Mới năm nay, có nhà thơ Viên Linh cũng ra đi ở tuổi 86, trong một viện dưỡng lão ở Virginia.

Tôi thương họ một điều là đến cuối đời vẫn không tròn được ước nguyện về thăm quê hương lần cuối. Dù hẳn nhiên không ai có thể bắt gặp lại được tâm hồn của mình chiều hôm ấy. Bao nhiêu nước đã chảy mòn dưới chân cầu. Chúng ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông.

Biết vậy nhưng tôi vẫn rưng rưng với một Mai Thảo, khi nằm trên giường bệnh ở một nhà thương Garden Grove, Cali và đã dùng bút đàm với nhà thơ Trần Dạ Từ, với câu hỏi làm nhức tim mọi người có mặt là bao giờ và cho đến bao giờ người ta mới có thể cho ông về thăm lại con đường kỷ niệm Ký Con ở quê nhà, nơi Sài Gòn thành phố cũng đã mất tên.

Nguyễn Thị Thanh Bình

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

515. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 91: ĐẶNG MAI LAN -Tàu đã xa dòng sông Potomac.

 

Potomac river - Ảnh: Pinterest

Sinh năm 1954 tại Đà Nẵng. Định cư ở Pháp từ năm 1978. Các sáng tác ở hải ngoại được bắt đầu từ năm 1991. Cộng tác với các tạp chí ở Mỹ: Văn, Văn Học, Thế kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, Tuần Báo Trẻ, Thư Quán Bản Thảo. Hiện sống tại Sceaux, ngoại ô Nam Paris – Pháp.
 
Tác phẩm đã xuất bản: Phòng 111 (tập truyện) – Văn / 2000, Tập Sống (tập truyện) – Văn Mới / 2009,  Người Lạ Người Quen (tạp văn) – Văn Học Press / 2018, Sương Ký Ức (truyện dài) – Văn Học Press /2020, Đi Tìm Quá Khứ (tạp văn) – Văn Học Press / 2021, Văn Tuyển 30 (tập truyện) – Biển Khơi Normandie / 2022, Một Tuần Một Đời (truyện dài) – Biển Khơi Normandie / 2023.

 

TÀU ĐÃ XA DÒNG SÔNG POTOMAC 

Tôi đến Virginia được hai lần. Lần đầu tháp tùng nhóm nghệ sĩ Paris đến giúp vui văn nghệ cho buổi sinh hoạt cộng đồng do một nhà thơ sống tại địa phương tổ chức, vì ông nhà tôi là người đàn-đệm cho buổi văn nghệ đó. Lần khác, là dịp tôi ra mắt tác phẩm thứ ba, sau nhiều năm dài im hơi lặng tiếng. Cả hai chuyến đi đều ngắn ngủi. Tôi chỉ lưu lại vài ngày nên tất cả thời gian đều dành cho việc ra mắt sách.           

Tôi biết gì về Virginia?

Đầu tiên là ngôi nhà đẹp có vườn trúc rì rào của nhà văn Hoàng Thị Bích Ti, nơi cô đã sắp xếp một buổi gặp gỡ thân mật cho tôi và nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến giới thiệu tác phẩm mới của mình.            

Biết đến trung tâm thương mại Eden đậm nét văn hóa Việt Nam. Khu thương xá có lá cờ vàng ba sọc đỏ giương cao và sử tích oai hùng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa qua những con đường được mang tên 5 vị tướng tuẫn tiết ngày đất nước rơi vào tay giặc.          

Biết nghĩa trang Quốc Gia Arlington. Ngẫu nhiên, tôi được đến nơi này không đơn thuần như những du khách tìm thăm thắng cảnh, hay đền đài nổi tiếng của Hoa Kỳ, mà là đi viếng mộ của một sĩ quan cao cấp. Ông qua đời cách đó không lâu, trước khi tôi có mặt ở vườn trúc. Phu nhân của vị sĩ quan này là người bạn vong niên thân thiết của Bích Ti.         

Và biết thêm thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Một ngày rong ruổi không thể quên. 

Nhiều năm rồi, dư âm tiếng nói, giọng cười của bạn bè thân quen thỉnh thoảng rộn rã vọng về trong ký ức. Chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, nhắc nhở những chuyện vui nơi vườn trúc ngày nào. Nhưng trong tôi còn đăm đắm một thứ tình riêng, và hình như tôi cũng chưa hề kể lại với ai những ân tình ấm áp này.      

Tôi vẫn từng nghe những lời ca ngợi về cảnh đẹp của sông Potomac, và tự hẹn một ngày không xa sẽ quay lại Virginia, tìm đến một bến bờ nào đó để tận mắt chiêm ngưỡng cái thơ mộng êm đềm của đất-trời-sông-nước qua bao truyện ngắn, tùy bút tôi đã đọc. Mà đến đâu, khi nào? Xem trên bản đồ bờ Đông Hoa Kỳ thì sông bắt nguồn từ phía Tây Virginia. Hóa ra những nơi tôi đã từng đi qua đều soi bóng bên dòng Potomac. Lại tự nhủ lòng hãy chọn mùa vàng lá hay mùa xuân khi những cánh hoa anh đào nở rộ.          

Nhưng ở bài viết này, trước tiên, tôi muốn nói về nước của một dòng sông, về người phụ nữ mang tên Hồng Thủy. Nước của sông Hồng. Ý nghĩ mơ mộng này chỉ vừa mới chớm khi tôi nhớ đến một giọng Bắc ngọt ngào.         

Lần đầu tiên gặp mặt, không hẳn từ cái nhìn đầu tiên về trang phục lịch sự và rất có gout của chị. Mà khởi đi bằng ánh nhìn, giọng nói cùng những nụ cười duyên dáng. Tất cả những gì toát ra từ người phụ nữ khiến tôi hình dung đến sự trong suốt, long lanh của nước. Đứng trước một dòng nước tuôn chảy róc rách, dịu dàng, luôn mang đến một thứ cảm giác dễ chịu.          

Chị tặng tôi hai cuốn sách. Chị nói, chị viết đơn giản, viết những câu chuyện đời thường, không "cao siêu" như mấy em đâu!       

Chị khiêm nhường quá. So với hành trình bước vào con đường văn nghiệp của chị, tôi chỉ là hậu bối. Thanh xuân tôi nơi quê nhà dở dang, ngắn ngủi. Không trọn vẹn, đủ đầy để có thể viết ra những trang sách đẹp nói về một miền đất đã mất, những kỷ niệm một đời dài ngọc ngà thơ mộng mà chị được sống cùng. Những cuốn sách chưa đọc vẫn thấm được hương thơm của hoa tương tưcủa những cánh hoa dại màu vàng 1Tôi chỉ được cái lãng mạn hão huyền, nào có cao siêu như chị nói.           

Hôm ấy không may ra vườn, Bích Ti bị trượt ngã, trặc chân. Không nặng lắm, nhưng cô cần nghỉ ngơi vì không thể đi đứng bình thường. Và khi biết chúng tôi chưa có một chương trình nào cho ngày hôm sau, chị đã đề nghị sẽ đến đưa hai vợ chồng tôi cùng anh chị Phan Thị Trọng Tuyến đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.    

Tất cả cùng ngỡ ngàng khi anh xuất hiện. Dưới vành mũ lưỡi trai là một khuôn mặt  phương phi, đầy phúc hậu. Vóc dáng to lớn khỏe mạnh trong chiếc áo sơ mi ngắn tay in hình những cây dừa cọ, những ngọn xương rồng màu sắc. Nhưng với chiếc quần rêu kaki, những sắc màu ấy bỗng trở nên tươi vui, nhã nhặn. Nhìn anh trẻ trung, không ai nghĩ tuổi anh đã ngoài tám mươi.          

Chiếc xe không đủ chỗ cho sáu người. Nên chị ở nhà nhờ chồng đến đưa chúng tôi đi. Và cũng có thể anh là người rành rọt đường đi nước bước của thành phố này hơn chị.          

Làm sao nói hết sự cảm động khi chúng tôi nhận từ tay anh những chai nước suối và giỏ đồ ăn. Anh chị Trọng &Tuyến ăn chay trường thì được hộp xôi vò, còn anh và vợ chồng tôi là những chiếc bánh Pâté chaud và vài loại trái cây tráng miệng. Chị thật là chu đáo!        

Anh đưa chúng tôi đi thăm viếng nhiều nơi. Từ những tòa nhà ngạo nghễ, đầy quyền lực nhất địa cầu như Capitol Hill, White House… cho đến những công viên, công trường, nơi có nhiều tượng đài của những danh nhân mang dấu ấn lịch sử vang danh thế giới. Riêng những viện bảo tàng, thì anh chở đến và chúng tôi tự vào thăm viếng. Anh đi vòng vòng chờ bên ngoài.        

Nơi chốn nào cũng được ghi lại bằng những tấm hình do anh chụp. Anh đưa máy lên và hạ xuống rất nhanh. Có lúc tôi đã nghĩ, chụp nhanh quá không biết hình như thế nào? Nhưng khi nhận được hình anh chuyển mới nhận ra anh chụp rất hay. Nếu không có anh, không có những bức ảnh thì vùng Hoa Thịnh Đốn uy nghi, lừng lẫy này rồi sẽ chìm khuất trong trí nhớ mỗi ngày mỗi mờ mịt của tôi.  


Từ trái: Đại tá Bùi Cửu Viên   Đặng Bình   Đặng Mai Lan
Nguyễn Quang Trọng   Phan Thị Trọng Tuyến    

514. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 90 : Trang Thơ NGUYỄN THỤY ĐAN


Nguyễn Thụy Đan sinh năm 1994 tại Sacramento, tiểu bang California. Bắt đầu học tiếng Việt từ năm 13 tuổi. Sau đó nghiên cứu về chữ Nôm, chữ Hán và chữ La Tinh. Hiện là nghiên cứu sinh ngành lịch sử Đông Á tại Đại học Columbia theo diện học bổng - nghiên cứu về diễn ngôn và văn hóa sĩ phu cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19. Đồng thời, giảng dạy với vai trò trợ giảng tại Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á của trường đại học này. Tác phẩm đã xuất bản: 1. Chướng Vân (Tập thơ, 2018), 2. In illo tempore (thơ, 2024). 

TỰ KHÚC VÀO ĐÔNG

i. 
im lặng đồi cùng dịu dàng đêm
cánh rừng đông-bắc trĩu muộn-phiền.
ngươi chẳng thấy
đâu đó quanh đây
tịch-mạc tôi. cùng vời vợi em.
 
(xa-cảng vienna metro kiss-and-ride) 

ii. 
giá sách chìm lãng quên. tôi gẫm suy
tĩnh-vật niềm khắc khoải thầm lặng
nỗi tầm-thường. táo-bạo trong dại khờ.
 
lũ ngươi. đã chẳng bi-hùng sao.
bức sốt cơn cuồng thất bát
níu bút. bằng níu sự sống.
níu bút. bằng níu tàn-dư lý-trí. (đối mặt dáng vẻ vô-biên
có rùng mình trước cuộc trần truồng không đàng viễn-ly?)
níu bút. bằng níu nhau. ôi. những khối thịt cô-đơn trong ý-thức.
ăn mày hơi người. tuyệt mù thuở đêm đông.
 
đôi khi. trên trang giấy lận đận
câu chữ bất chợt sáng láng
dòng huyền-ngữ. xác phàm chẳng cùng hay.
tôi cầm. tôi đọc. và tôi tin.
 
giá sách chìm lãng quên. tôi nguyện ngắm
mùa thương. chuỗi hạt đời hữu-hạn
cơn đói khát. bất-tận chờ sớm mai.
 
(thư-phòng nguyễn minh-nữu, springfield, virginia)
 

iii. 
gió thổi phương nam lại chuyển sang phương bắc
nó thổi quanh vòng
bởi đâu quanh vòng rồi lại quanh lở về
 
kẻ giảng
 
cơn chiều khôn cạn gió.
cơn đêm lá còn thay.
tôi nằm. tính nhẩm ngày giờ hay chết.
 
những ánh mắt.
một lần hiển-lộ. rồi tan biến.
chập chờn chân-lý. dưới bầu trời lặng câm.
 
đêm nay dai dẳng cùng cơn tỉnh.
quạnh quẽ dở chân tay.
tê buốt. từng chi ma. thẳm thẳm xưa.
 
(nhà khách vikingsborg, tu-viện st. birgitta, connecticut)

510. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 89 : Trang Thơ Hoàng Phượng.

Trong ảnh: Hoàng Phượng

Tên thật: Hoàng Ngọc Phượng. Sinh năm 1956 tại Sài Gòn. Sang Mỹ năm 1977 và định cư tại Virginia. Tác phẩm đã xuất bản: Tâm Khúc Cho Đời (2022).


THƠ HOÀNG PHƯỢNG 

LAU KHÔ DÒNG LỆ 

Giọt nước mắt khóc cho đời viễn xứ
Những phận người lưu lạc bỏ quê hương
Giọt nước mắt khóc cho đời lữ thứ
Sống bôn ba trôi giạt kiếp tha phương.
 
Giọt nước mắt khóc phận người trôi nổi
Ngoảnh lại thôi đầu xanh đã bạc màu
Bài thơ buồn như một lời trăng trối
Giọt lệ này ta gửi lại ngàn sau.
 
Hãy ngồi lại đây nhắc chi đời dâu bể
Với những thăng trầm những tan tác phân ly
Hãy đến bên em và lau khô dòng lệ
Những đoạn đường đời gian khổ đã qua đi.
 
Và những sầu hận sẽ không còn quanh quẩn
Những đớn đau này không còn đọng trong  ta
Ôi những phiền muộn đắng cay thời lận  đận
Đã trôi qua rồi dĩ vãng mịt mù xa.
 
Ôi thế giới mai biết về đâu nữa
Hãy yêu em như từ thuở ban đầu
Tình nếu lạnh xin thắp dùm ngọn lửa
Trọn đường tình ta bước tiếp cùng nhau
 
GỬI SÓNG LÊNH ĐÊNH
 
Một mai tôi có qua đời
Bóng còn khăng khít bên người ngàn năm
Mắt ru khép lại âm thầm
Hồn còn quanh quẩn đăm đăm hướng về.
 
Một mai tôi có ra đi
Đừng buồn đừng tiếc thương gì người ơi
Trả xong nợ một kiếp người
Khuất rồi như bóng mặt trời về đêm.
 
Sáng nay dù đã nằm yên
Anh linh còn đó chưa quên nghĩa tình
Lửa nung dù xóa bóng hình
Tro tàn xin gửi lênh đênh sông ngàn.
 
Đại dương sâu thẳm mênh mang
Chở tôi về lại thênh thang cội nguồn
Chở tôi về lại quê hương