Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2025

682. NGUYỄN TƯỜNG GIANG Một tháng, nhớ Đinh Cường.

Phác thảo chân dung Nguyễn Tường Giang
dinhcuong – 29.4.2014


Buổi sáng, dậy sớm có việc phải đi ra khỏi nhà. Đầu tháng hai trời lạnh nhưng không có tuyết. Ngày cuối năm âm lịch, buổi sáng vắng vẻ nhắc nhở không khí một ngày cuối năm, năm nào, ở một quê hương đã xa. Con đường tỉnh lộ 50 đi về phía tây, những hàng cây trụi lá hai ven đường để lộ thấp thoáng vài căn nhà nhỏ bé xây theo một mô hình đồng nhất, gợi nhớ một bức tranh của người bạn họa sĩ, hình như đã mất. Chỉ một tháng trước đây thôi, trên con đường này, mười giờ tối, tôi đã chạy xe vội vã đến đón Nguyễn Mạnh Hùng vào nhà thương Fairfax, cũng nằm cạnh con đường 50 này, để nhìn mặt lần cuối cùng Đinh Cường. Một linh cảm tình cờ đã xui khiến tôi gọi điện thoại, không vì một duyên cớ nào cả, hỏi thăm tình trạng của Đinh Cường trong nhà thương. Cô y tá trưởng, sau khi cho biết Đinh Cường vẫn còn nằm trong phòng cũ, ngập ngừng nói với tôi: dù sao, ông ta cũng vừa ra đi 30 phút rồi. Mới một ngày trước đó, chúng tôi còn vào thăm và trò truyện, dù rất ít, với Đinh Cường. Một ngày trước đó Đinh Cường còn nhìn, nói và thở. Bây giờ tôi và Hùng đứng dưới chân giường, nhìn tấm thân gầy gò của một thiền sư, mỏng và nhẹ tưởng chừng như có thể bay trong gió, đôi mắt khép kín bình yên, đôi môi hé nở một nụ cười, nụ cười hiền lành của Đinh Cường ngày nào. Mới chỉ một hai ngày trước đây thôi, tôi còn có trong giấc mơ, cùng vài người bạn đến đón Đinh Cường đi uống cà phê, hai chân ông đã yếu phải có người giúp đỡ để ngồi vào xe, ở một quán cà phê nào đó, Starbucks hay Bayou. Người họa sĩ thường ít nói, và khi nói chỉ là nhắc đến các bạn bè quen thuộc, xa gần với một sự trìu mến, một cuộc triển lãm của người bạn, một cuốn sách mới in, dự tính về triển lãm chung với một họa sĩ bạn ở Huế, nơi chốn ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm tưởng, vào tháng hai âm lịch sắp tới đây. Không ai ngạc nhiên vì sự quen biết nhiều đến không giải thích được của Đinh Cường, miền Nam, miền Bắc, Sài Gòn, Đà Lạt, Huế, Hà Nội, thế hệ cũ, thế hệ mới, trong nước, ngoài nước…Nhắc tới những người làm văn nghệ hoặc có ít nhiều liên quan đến văn nghệ, Đinh Cường đều biết khá rõ , và tỉ mỉ hơn chỉ với một lời nhận xét, Đinh Cường đã mô tả được cái nét đặc thù của người được nhắc đến. Ngồi uống cà phê với chúng tôi, không lần nào mà Đinh Cường không có một cuộc điện đàm, hoặc bạn bè gọi tới, hoặc Đinh Cường chợt nhớ tới ai đó, gọi hỏi thăm nói chuyện chơi, có khi từ Việt Nam, có khi từ các tiểu bang xa xôi khác. Không có gì cả, nhưng có lẽ Đinh Cường luôn cảm thấy cần có những sợi dây liên lạc mật thiết , muốn được nghe giọng nói, hơi thở, tưởng như bè bạn vẫn kề cận bên mình. Gần đây, Đinh Cường hay đi ra ngoài thường xuyên, hầu như mỗi ngày, đi ăn gà nướng Peru, gà Rosemary ở Madeleine, bánh tôm hay chả cá Hà Nội, ăn phở gà ở Kobe…nhưng lần nào Đinh Cường cũng ăn rất ít, như có lệ, căn bệnh hiểm nghèo đã lấy đi cái thú ẩm thực của ông. Đinh Cường đã mệt nhiều và tôi nghĩ, Đinh Cường đã biết những ngày còn lại rât ngắn ngủi của mình, ông chỉ muốn ra ngoài để thở cái không khí mọi người đang thở, để nghe tiếng nói cười của một đời sống ông sắp phải lìa xa, như một tuần lễ trước khi ông mất, ông đã nhìn thấy bàn tay vẫy gọi và tiếng chào hỏi gặp gỡ của hai người bạn chí thân: Bửu Chỉ và Trịnh Công Sơn.

Tôi cũng không nhớ rõ tôi quen Đinh Cường vào khoảng thời gian nào, nhưng chắc chắn không phải trước 1975. Tôi chỉ nghe tiếng và có thể xem qua một vài bức tranh của ông trong một triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ, không để lại một ấn tượng ghi nhớ nào. Tôi nghĩ, sự quen biết của tôi với Đinh Cường, trước tiên là vì chúng tôi cùng ở một địa phương và gặp gỡ nhau qua một người bạn. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là khi mới trò truyện cùng nhau, tôi và Đinh Cường đều có cảm tưởng đã quen biết nhau từ lâu, lý do rất dễ hiểu là vì tôi có quen và biết khá nhiều bạn của Đinh Cường và ngược lại, Đinh Cường cũng biết khá rõ về các sinh hoạt văn nghệ của tôi và bạn bè. Những bạn bè của tôi và Đinh Cường, thuở đó, vì tuổi trẻ và đầy nhiệt huyết, có thể là vì rất ngây thơ hay rất tàn bạo, đã tham gia khá nhiều vào những biến động thiên tả và phản chiến. Bây giờ, cái miền Nam một thời nuôi dưỡng chúng tôi đã không còn tồn tại, khi tôi cùng Đinh Cường có nhiều cơ hội gặp gỡ và trò truyện cùng nhau, chúng tôi cảm thấy thân thiết hơn chỉ vì những ngậm ngùi quá khứ, nhắc lại dĩ vãng của một thời đã qua, dĩ vãng bao giờ cũng đẹp dù sai hay đúng, những bạn bè người còn kẻ mất, thương tiếc hai mươi năm tiêu pha tuổi trẻ và những giấc mơ, những năm tháng mất đi không bao giờ trở lại, như mối tình đầu tan vỡ. Tôi không phải là một người bạn thân của Đinh Cường, giữa tôi và ông chỉ là một liên lạc về một quá khứ đã xa. Và khi Đinh Cường mất đi, tôi càng cảm thấy xa vời với cái quá khứ đầy mộng mị, cái quá khứ đã ám ảnh đến hơn một nửa phần đời của tôi. Tôi đã già, và khi Đinh Cường mất đi, tôi thấy cũng rất gần đến cái ngày chôn vùi cả một thời, một thời chiến tranh tan nát của quê hương, một thời để nhớ và một thời để quên.

Hôm qua, trong buổi giỗ trong gia đình, Chu Việt, đã ở cái tuổi xa 80 và gần 90, hỏi tôi: ông không có bức tranh nào của Đinh Cường nhỉ?. Tôi kéo ông ra ngoài phòng khách, chỉ cho Chu Việt bức tranh đầu tiên tôi mua của Đinh Cường, có lẽ đã hơn 25 năm. Bức tranh có nhà thờ đổ nát, cây thánh giá xiêu vẹo, có ngựa đeo lục lạc u buồn, có vừng trăng hỗn mang, một bông hoa trắng cô đơn và thiếu nữ khuôn mặt nhìn nghiêng, rất đặc thù của Đinh Cường, những mảng mầu xanh huyền hoặc trên nếp áo dài và vệt chấm đỏ như lửa trên đôi môi thiếu nữ. Bức tranh ghi 8-87. Không biết lúc đó, người bạn tôi quen Đinh Cường , còn ở quê hương hay đã sang miền đất lạ.

Như bây giờ, Đinh Cường đã sang miền đất lạ để trở về quê hương.


Nguyễn Tường Giang
Ngày 07 tháng 02 năm 2016 tức ngày 29 tháng chạp thiếu năm Ất Mùi. Một tháng sau ngày Đinh Cưòng ra đi.


Nguyễn Mạnh Hùng - Nguyễn Tường Giang - Đinh Cường
Burke  (VA) - 16.3.2014

Nguyễn Tường Giang - Đinh Cường
Ảnh PCH - Chantilly (VA) - 23.8.2014

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

681. NGUYỄN TRỌNG KHÔI Giã biệt một bóng tài hoa.

Đinh Cường, Nguyễn Trọng Khôi
Georgetown, April 11 / 2014

Tất cả những hoàn cảnh ra đi vào cõi vĩnh hằng mà chúng ta ai cũng biết, phải thực tế mà chấp nhận nó như một điều tất nhiên, tuy vậy lại không một ai mong nó đến sớm, nhất là những người thân.

Những ngày gần đây liên tục những tin buồn đến với tôi. Những người bạn sống quanh tôi và thân thiết với tôi lần lượt ra đi. Sáng sớm ngày thứ sáu 8 tháng 1,tin từ Virginia do Trương Vũ vàPhạm Cao Hoàng phát đi cho tôi biết họa sĩ Đinh Cường vừa qua đời đêm hôm qua, tôi nghe thấy mà lặng đi, hụt hẫng, giống như mất một cái gì quý giá lắm, tôi ngẩn ngơ và hoang mang. Luống cuống, tôi đi tìm một cái gì đó mà không rõ. Tự nhiên tôi muốn mọi người phải biết đến hung tin này mà chia sẻ, mà tiếc nuối, không hiểu tại sao tôi lại muốn như thế.

Hôm ấy là ngày trời tương đối ấm, tôi định rằng sẽ xuống phòng vẽ tiếp tục tấm tranh đang vẽ dở dang, nhưng không làm được gì, đầu óc trống rỗng. Trưa lại có cái hẹn làm răng. Trên đường lái xe tôi nhớ lại bài hát viết cho anh Đinh Cường từ năm 1990. Ca khúc Giấc Mộng Trên Đồi Thơm.  Khi ca khúc viết được lời 1, tôi đã hát cho anh nghe. Anh nói với tôi: Moa thích hoa phù dung, có cách nào thêm vào bài hát không? Và từ đó lời hai của ca khúc đã được viết thêm. Ca khúc này về sau tôi đã hát rất nhiều lần nhưng có lúc hát được trọn bài, có lúc chỉ hát được lưng chừng thì bị nghẹn lại. Sau khi làm răng tôi ghé qua nhà người bạn, uống một ly rượu mạnh và nói chuyện về anh Đinh Cường với người bạn.

Đinh Cường là một tài năng trong nhóm họa sĩ trẻ của những thập niên 60’, 70’s tại Saigon. Tài năng đó đã lan rộng toàn quốc và sang cả hải ngoại, đã liên tục cho đến bây giờ. Một họa sĩ khơi mở những lối đi sáng lạn khởi đi từ những mộng mơ của núi đồi, những nhan sắcnhu mì bên những con chim nhỏ đậu lơ ngơ đâu đó ở một cành cây, bờ cỏ hay trên đỉnhnhững gác chuông giáo đường. Những không gian óng mượt, những nỗi cô đơn, buồn tênh ẩn hiện vào ánh sáng thành sự màu nhiệm. Màu xanh tươi mát, bóng tối tươi mát. Tất cả được chắt lọc mang lại thành quảđắt giá của màu sắc.…trong vài sự lẻ loi cũng được gói ghém vào không gian ấm áp. Nói chung ngay cả những hoài niệm hay những nỗi buồn cũng được anh trình bày, thăng hoa thành một motif cá biệt như một cần thiết.

Tôi không cố ý phân tích về hội họa của họa sĩ Đinh Cường. Công việc này đã có rất nhiều người làm rồi và sẽ còn làm nữa sau này. Tôi là người cùng nghề, cùng sinh hoạt chung với anh trong vai trò một họa sĩ, và nhất là được anh xem như bạn đồng hành. Tôi chỉ muốn nói đến một thoáng nhận thức từ không gian tranh Đinh Cường cùng những cảm quan khi làm việc. Thời gian gần gũi anh, tôi học hỏi được rất nhiều từ anh. Tôi học hỏi ở anh về sự làm việc không mệt mỏi và cách tận dụng kỹ thuật vẽ. Khi gặp nhau chúng tôi không hề trao đổi về nghề nghiệp, thường lan man nói về những việc thường ngày của xã hội. Tôi và Đinh Cường hay cho nhau xem những tác phẩm mới hoàn thành. Tôi thường âm thầm theo dõi những bước đột phá trong hội họa và kỹ thuật thể hiện. Những mảng màu trình bày, bồi đắp trên canvas ngon như miếng bánh. Riêng về chất liệu đã làm đẹp không gian, cộng thêm bút pháp điêu luyện của một người dày kinh nghiệm đã đủ đưa người thưởng lãm vào một không gian trữ tình và đầy bí ẩn, từ đó hình họa trở thành không cần thiết và phô diễn nội dung trở nên dư thừa. Cái quan trọng họa sĩ phải biết mình đang trét cái gì trên canvas.

Đây là phát biểu của họa sĩ Đinh Cường:

« tôi đã dần dần tước bỏ hết ý niệm về sự vật, hay nói theo danh từ triết học kinh điển, loại bỏ mô thể, hình dáng của sự vật để chỉ còn giữ lại chất liệu, matière, thuần túy của sơn dầu ». Không phải ai cũng hiểu được matière của sơn dầu.

Không gian tranh trừu tượng của Đinh Cường làm sáng tỏ sự tiềm ẩn từ vô thức. Anh vẽ như Franz Kline vẽ bằng kinh nghiệm, hay De Kooning vẽ bằng bút lực. Nó được hình thành và thể hiện giữa biên cương của trí tuệ và lãng mạn.

Nếu những ánh sáng lóe lên từ khe kẹt trong tranh Nguyễn Trung làm không gian có hơi hướm tôn giáo, rõ nhất là Phật giáo, ôm theo nét văn hóa Ấn Độ, ảnh hưởng đậm Khmer, thì ánh sáng trong tranh Đinh Cường lại mang tính màu nhiệm của Thiên Chúa Giáo. Không phải vì trong tranh Đinh Cường có bóng dáng những tháp chuông nhà thờ mà là trải rộng ra toàn không gian, một không gian mang theo chất lãng mạn của Paris: xanh lam của Paris, xám Paris, những khối mảng màu sắp chật gọn của Paris và ngay cả nỗi cô đơn đẹp đẽ cũng Paris. Tôi thấy anh rất yêu thích văn học Pháp.

Ai cũng vẽ, mỗi người mỗi vẽ. Học vẽ cũng vẽ mà không học vẽ cũng vẽ. Nhưng quan trọng nhất là vẽ thế nào thì ít ai để ý. Có một số họa sĩ hay ép cây cọ của mình vào một công việc tuyên truyền cho một mục đích như diễn giải một vấn nạn trong cuộc sống, nỗi đau khổ hay những lý thuyết về con người.. Họ gào lên những bất an, gào lên những nghiệt ngã làm đau khổ nghệ thuật… Nó đã kéo dẫn sai lệch cả vai trò người thưởng lãm nghệ thuật đi vào một cái nhìn mù mờ về nghệ thuật, đã tạo thành một thói quen. Vẽ thì luôn phải kinh nghiệm và khám phá nhưng xem tranh không nên nhìn bằng cặp mắt thói quen. Các nhà phê bình vốn dĩ là gạch nối giữa tác phẩm và người thưởng lãm lại thường làm vấn đề trở nên phức tạp, gây cho giới thưởng lãm thêm hoang mang.

Kỹ thuật vốn là phương tiện để họa sĩ tận dụng nó đề thực hiện tác phẩm, những điểm nhấn - coup de pinceau rất quan trọng, nó giống như một câu thơ làm tỉnh giấc một bài thơ, làm tỉnh giấc cảm quan của người đọc. Những bồi đắp màu sắc, những nét gạch mạnh mẽ, chắc ăn phát đi từ bàn tay giầu kinh nghiệm và điêu luyện khiến cho tâm hồn chúng ta thỏa mãn cái không gian bí ẩn từ vô thức vừa được khai quật bất ngờ. Đinh Cường luôn làm chủ được bàn tay, làm chủ được kỹ thuật và chất liệu.

Tôi biết anh Đinh Cường từ năm1967 khi đó tôi đang chơi với họa sĩ Nguyễn Trung. Nhưng phải cho đến 1978 tôi mới quen biết anh, nhưng lại là người thân nhất và bền bỉ nhất trong group họa sĩ trẻ. Tôi thân với anh Đinh Cường không phải do tài năng mà là những đồng cảm trong nghề, và trong cuộc chơi giữa đời. Anh luôn trân trọng tôi và xem tôi như người cùng trang lứa mặc dầu tôi sau anh nhiều lớp và nhỏ hơn anh cả chục tuổi. Những ngày còn ở VN, đôi ba ngày lại gặp nhau, không biểu lộ nhưng âm thầm chia sẻ cho nhau những an ủi.

Bao nhiêu năm quen biết, bao nhiêu lần gặp gỡ, mỗi lần mỗi kỷ niệm. Nhưng có một lần tôi gặp một chuyện thật đau lòng. Sự đau khổ đã tới cùng cực tôi trở về nhà đóng cửa ngồi âm thầm trong bóng tối và nước mắt trào dàn dụa. Đột nhiên tôi nghe có tiếng gõ cửa, khi mở cửa tôi thấy anh. Anh không nói gì và chỉ ngồi bên tôi. Tôi như tìm được một chỗ dựa. Buổi tối  ấy, năm ấytôi không bao giờ quên. Anh cũng là người luôn khích lệ tôi làm việc mỗi khi thấy tôi lơ là việc sáng tác, anh gửi cho tôi lá thư đôi khi chỉ vài chữ nhưng tôi giữ mãi cho đến bây giờ: “Khôi ơi ông vẽ rất đẹp. Đừng bỏ vẽ nghe”. Thế thôi, chỉ thế thôi mà thân nhau, tôi xem anh Đinh Cường như anh ruột mình.

Tôi nhìn thấy anh trân trọng tình bạn đồng lứa với anh, ứng xử trong giao tiếp với mọi ngườidầu với bất cứ ai,nhẹ nhàng và ân cần. Tôi chưa thấy anh lớn tiếng bao giờ và trong mọi cuộc gặp gỡ anh cũng không tranh cãi và ngồi rất bền bỉ với bạn bè. Cá tính này không mấy ai có được.

Trong gần 40 năm quen biết anh, tôi có may mắn  được triển lãm chung với anh. Với anh, triển lãm chung là một hội tụ vui vẻ.

Những năm trở lại đây, khi biết sức khỏe anh bị sa sút. Tôi chỉ âm thầm hỏi anh lòng vòng để suy đoán, không đi quá sâu vào chi tiết, và âm thầm mong anh khỏe mạnh hơn. Có dịp là tôi ghé thăm anh ngay. Anh thường nói với tôi là thích những viên sỏi của tôi vẽ. Anh cũng đã viết một bài cho tôi về đề tài này. Rồi một ngày anh muốn có một tranh nhỏ vẽ những viên sỏi anh nói với tôi là để treo ở đầu giường. Tôi đã thỏa mãn cho anh điều đó. Khi nhận được anh rất vui. Thấy anh vui tôi cũng vui thật nhiều.

Lần cuối gặp anh vào khoảng 20 - 22 tháng 11 vừa qua. Chưa lúc nào như lần này, tôi thấy như có điều gì anh đang chuẩn bị, dầu anh không nói hay biểu lộ gì. Tôi thấy anh vội vã và níu kéo hơn cho những gặp gỡ, cơ thể không cho phép anh năng động hơn nhưng anh rất vui. Đúng như vậy, anh rất vui.

Anh Đinh Cường ơi! Anh ra đi nhưng thật ra anh sẽ còn trong chúng tôi những ấn tượng đẹp không dễ phai nhòa, anh vẫn còn ở lại qua những tác phẩm tràn lan giữa cuộc đời, giữa chúng tôi. Anh không nói nhưng tiếng anh vang dội mãi mãi. Mấy ngày qua có biết bao người từ khắp mọi nơi dõi bước theo anh. Có bao nhiêu tổ chức hiện đang huy động để cùng nhau nhắc nhớ đến anh,nào Sàigon, nào Huế cùng nhau tiễn anh về nơi chốn thanh nhàn mà trong lòng ai cũng muốn lưu giữ lại hình bóng anh.

Vĩnh biệt anh và chúc anh mọi sự bình an.

Nguyễn Trọng Khôi
January 13, 2016
(Bài viết đã được đọc tại tang lễ họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường  - 13.1.2016).

Họa phẩm sưu tập cuối cùng của Đinh Cường
tranh “ Những viên đá cuội” của Nguyễn Trọng Khôi.
Sơn dầu trên vải bố gai 8" x 10"

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2025

680, ĐINH TRƯỜNG CHINH Bức tranh thiếu nữ cuối cùng của Đinh Cường


THIẾU NỮ BÊN CỬA SỔ MIỀN ĐỒI NÚI
Oil on canvas, 40”X40” - dinhcuong  - October 2014
 

Đây là bức tranh thiếu nữ cuối cùng của Đinh Cường (ĐC) . "Thiếu nữ bên cửa sổ miền đồi núi". (1) Bức tranh thực hiện tháng 10, 2014 . Sau đó ĐC chỉ sáng tác thêm dăm tác phẩm nữa . Tất cả đều là trừu tượng, đề tài Phật, Thiền,  hoặc phố . Có vài bức vẫn chưa xong hẳn ...

 

Riêng bức "Thiếu nữ bên cửa sổ miền đồi núi" thì đã hoàn chỉnh . Nó ra đời từ một tấm bố trắng . Từ những buổi chiều . mưa, nắng .  những ngày bắt đầu thấm mệt .

 

Chắc chắn đây không phải là bức tranh thiếu nữ xuất sắc của ĐC trong hàng ngàn những bức tranh thiếu nữ khác . Nhưng nó như một sự trở về . ĐC thấy cần về . Thăm . Vỗ về.  như vỗ về cơn đau thân thể  mình .  Vỗ về ký ức rạng vỡ của bao nhiêu năm chiến tranh và lưu lạc . Cái tìm về cuối cùng vẫn là thiên nhiên, là cái đẹp mong manh sương khói, những ân tình cũ ...

 

Bức thiếu nữ này khép lại một mảng tranh đã làm nên dấu ấn ông một thời : tranh thiếu-nữ-đinh-cường.   Bức tranh cuối về đề tài này , ông đã vẽ trong căn bệnh . Nhưng nó vẫn toát lên tròn đầy con người ĐC : thơ mộng, lãng mạn, thiết tha, ân cần ...với cái đẹp . Sạch sẽ, thanh thoát và kiêu sa. Như thế giới tranh ĐC làm ra , cho dù ở giai đoạn nào của cuộc đời . Hãy sống nhận thức rằng : rồi mọi thứ sẽ đi qua, chiến tranh, lưu vong, nỗi đau ... cái đọng lại cuối cùng là những gì đẹp đẽ , tinh khiết, cho dù nó không thấy được bằng mắt như hoàng tử bé đã nhắn .

 

Nên càng về cuối đời, Bố tôi nhắc nhiều về một đoạn đời thơ mộng sống ở Đà Lạt, Đơn Dương...nơi ông và TCS có những ngày chia nhau căn gác, mở cửa đụng mây, một giai đoạn sống gần như trọn cho cái đẹp của nghệ thuật, được nuôi nấng trong cái đẹp của thiên nhiên của đồi núi, cỏ hoa .

 

Dĩ nhiên là ĐC vẽ nhiều thể loại (2). Khi vẽ trừu tượng , ông cũng rất quyết liệt . Trong minh hoạ, ĐC rất phá cách . Khi vẽ phố, ĐC có những nét rất mạnh, thô nhám . Nhưng khi trở về với không khí lãng mạn thiếu nữ, ĐC tràn ra cái thơ mộng, thanh nhã, và như có lộ ra chút yếu đuối của tâm hồn .  Có lẽ vì tạng mỗi người sáng tác như thế . Và Bố tôi cũng thế : nhẹ nhàng, bặt thiệp, và ..dễ mềm lòng .

 

Trong bài viết của Nam Dao về TCS, Nam Dao nhắc :

"Có cậu Đinh Cường. Sơn có lẽ yêu nhất cậu. Có một lần Sơn chép miệng ...Nó tròn quá, đầy quá. Chứ nó góc cạnh một chút thôi thì nó là grand maitre đấy!" (3)

 

Đúng vậy . Cái gì quá thơ mộng, tròn đầy thì nó lại bị "kẹt" trong cái đẹp ấy , trong cái mỹ cảm dẫu xưa cũ ấy. Như thơ của Joseph Huỳnh Văn , tranh ĐC,  nhạc TCS ... Nó là thơ , và mãi mãi là thơ . Chúng đứng ở ngoài thể loại . Và luôn chạm đến , rơi sâu vào tâm hồn người ở một thời điểm nhất định nào đó . 

 

"...Như giấc mơ vội vàng tảng sáng 

đẹp muộn màng 

Ôi những người kiêu hãnh chẳng ngày mai 

đẹp tàn phai 

vì lòng hoài cách mạng 

...

Sẽ gần nhau trong khôn xiết biệt ly"

(thơ Joseph Huỳnh Văn)

 

Gần nhau trong ly biệt ? chúng ta mãi vẫn là những người đi một mình suốt đời . Nhưng lại bị ràng buộc nhau vì tình yêu cho cái đẹp. Khi ý thức được điều đó thì sẽ không có sự cô đơn. Cái đẹp của cuộc đời ở mọi nơi, mọi lúc , và nó sẽ hiện ra trên đường đi, chứ không ở đích đến .

-

đtc

 

(1) https://www.tienve.org/home/visualarts/viewVisualArts.do?action=viewArtwork&artworkId=18279

(2) www.dinhcuong.com

(3) http://truclyhoang.com/defaultf058.html?id=152&muc=23

Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025

679. TRƯƠNG VŨ Lá mùa thu.

SHENANDOAH MỘT SÁNG THU
sơn dầu trên bố, 30" x 24", 10.2011


Lần đầu tiên tôi gặp Đinh Cường là vào một buổi xế trưa đầu hè 1974. Tôi và Lê Thành Nhơn ra phi trường Nha Trang đón Cường về nhà, chuẩn bị cho một cuộc triển lãm cá nhân do đại học Duyên Hải tổ chức. Chúng tôi trở thành bạn thân từ đó. Cùng với Lê Thành Nhơn, Trịnh Công Sơn, Bửu Ý, Huy Tưởng chúng tôi làm việc chung với nhau ở Duyên Hải trong một số chương trình nhân văn, chia sẻ những ước mơ đẹp về một tương lai cần có cho những thế hệ tiếp nối đào tạo từ ngôi trường này. Thời gian sinh hoạt chung với nhau khá ngắn nhưng đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên.

Sau 1975, đại học Duyên Hải không còn nữa. Lê Thành Nhơn đi tỵ nạn ở Úc, sau đó tôi đi Mỹ. Hơn hai mươi năm sau tôi mới gặp lại Cường, chị Tuyết Nhung, và các cháu, sang định cư ở Virginia. Tôi có phụ với Phạm Nhuận và một số bạn khác tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên của Cường ở Mỹ. Từ đó, chúng tôi gặp gỡ nhau khá thường xuyên. Tôi ngờ rằng đời sống ở Mỹ có thể tốt cho các cháu nhưng không chắc nó hợp với Đinh Cường, vốn sống nặng về nội tâm, quen gần gũi những bạn bè thân tình từ thuở còn trẻ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy được nơi Cường một thái độ nhẫn nại, thâm trầm trong cố gắng giữ cân bằng giửa đời sống một con người bằng xương, thịt phải đương đầu với những vấn đề rất thực tế của xã hội Mỹ với đời sống của một nghệ sĩ có một thế giới rất riêng tư. Một thế giới của nghệ thuật, của tình bạn, của những nơi chốn luôn gắn liền với cuộc đời mình, như Huế, như Sài Gòn, như Dran, như Bình Dương,... và của hồi tưởng, nói chung. Thỉnh thoảng, tôi vẫn cảm nhận được nơi Cường ít nhiều chao đão trong nỗ lực cân bằng đó.

Đinh Cường là một tài danh lớn của hội họa Việt Nam, và là một bạn hiền, bạn tốt của hầu hết họa sĩ, văn thi sĩ được biết đến, thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Lớp già, không còn trên trần gian nữa, như Bùi Giáng, Nguyễn Tuân,  Bùi Xuân Phái, Mai Thảo, Võ Phiến, Võ Đình, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, … Cùng trang lứa, như Trịnh Công Sơn, Lê Thành Nhơn, Bửu Ý, Bửu Chỉ, Hải Phương, Nguyễn Đức Sơn, Lữ Quỳnh, Trịnh Cung, Nguyễn Trung, ... Lớp trẻ hơn, như Trần Vũ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Hoàng Ngọc Tuấn, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Trọng Khôi, Trần Hoài Thư, Nguyễn Đình Thuần,... Không giống như nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, Đinh Cường rất trân trọng công trình của người khác, một cách đặc biệt. Hầu như tất cả được Cường vẽ chân dung hay phác họa chân dung, hay làm thơ đề tặng, không phải chỉ một lần, mà có người, rất nhiều lần. Có lẽ Đinh Cường là người họa sĩ nổi tiếng duy nhất của Việt Nam đã viết sách, rất công bình, với nhận định sâu sắc và từ tốn, về những họa sĩ thuộc lớp đàn anh đã có công lớn cho hội họa Việt Nam,  bằng tác phẩm của họ hay bằng công trình đào tạo tài năng cho các thế hệ sau.

Có một điều tôi muốn thổ lộ ở đây, vì, có thể, nó cũng giống với tâm trạng nhiều bạn bè khác hay của nhiều người xem tranh, đọc thơ Đinh Cường. Dù luôn luôn là bạn tốt, trong suốt một thời gian khá dài, tôi với Cường sống trong hai thế giới khác nhau, phần trùng hợp không lớn. Thế giới của tôi khá bình dị, gần với thực tế, không có những lực đè nén để buộc tôi phải chìm đắm vào những lớp sâu của tâm hồn. Tôi thích thơ của Đinh Cường, tôi ngưỡng mộ tranh của Đinh Cường. Tôi cảm được có một giá trị cao nơi tác phẩm của bạn tôi. Bố cục, màu sắc, hình họa, và tính trừu tượng rất đặc thù. Tôi cũng cảm được rằng ở đây dường như có một chút phối hợp hài hòa giửa Modighiani với Picasso, và trên hết là của chính tài năng và tâm hồn của Đinh Cường, rất riêng. Tuy nhiên, dù ngưỡng mộ, tôi vẫn cảm thấy một chút xa cách. Chẳng hạn, tôi biết được, thấy được những thiếu nữ trong tranh Đinh Cường đẹp, rất đẹp, nhưng tôi không thấy gần với họ, không có cảm giác mình đụng được những con người như thế. Cho đến khi, tôi bắt đầu vẽ, bắt đầu xa rời dần cái thực tại bình thường của đời sống hằng ngày để đi vào cái thực tại của nội tâm. Lúc đó, những thiếu nữ của Đinh Cường cũng bắt đầu rời khỏi những con đường nhỏ của cố đô Huế năm xưa, hay rời khỏi những nấm mồ hoang sau nhà Bồ Tùng Linh, để đi vào thế giới riêng của tôi, như những con người rất thật. Cả cái nhà thờ con gà ở Đà Lạt, những phố xá, núi đồi trong mù sương ở Dran, hay anh da đen thổi kèn đồng ở Mỹ, v.v., đều như thế. Tất cả khiến cho cái thế giới nội tâm của tôi nhộn nhịp lên, làm cho đời sống giàu hơn.

Người vẽ tranh, người làm thơ Đinh Cường chắc chắn có được một niềm hạnh phúc lớn khi bằng nổi đam mê, tài năng, trí thông minh, và sức làm việc kiên trì để tạo nên những tác phẩm để đời, ưng ý. Niềm hạnh phúc đó không mấy ai khác có được. Tuy nhiên, khi tập tểnh bước vào cái thế giới của nghệ thuật, tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng mọi thứ không hẵn đơn giản như thế. Không hẵn chỉ có cái hạnh phúc đó. Nó còn có đau đớn, dằn vặt. Nó phải như thế nào để có chuyện Van Gogh tự cắt lỗ tai ông. Đam mê càng lớn, ước vọng càng cao, càng dễ thấy cái giới hạn của sức lực mình. Ráng tạo một tác phẩm như ý rất thường khi không khác như lao đầu vào một cuộc chiến của nội tâm. Dù xung quanh có bao người thân yêu, có bao bạn bè tốt, cuối cùng cũng chi có một mình mình thôi phải đương đầu với nó. Nỗi cô đơn rất khó tả.

Thường tình là như vậy, huống chi, khi biết mình mắc thêm một chứng bệnh trầm kha. Lúc đầu, bạn tôi vẫn giữ nguyên cái an nhiên, tự tại thường tình, và tin tưởng nhiều vào khả năng của y học. Vẫn vẽ nhiều, vẫn viết nhiều, vẫn gặp gỡ bạn bè thường xuyên, như không có gì xảy ra. Chấp nhận những đau đớn của chemo như điều không thể tránh.  Cho đến khi, cơ thể yếu hẵn dần. Lúc đó, theo dõi những bài thơ trên blog Phạm Cao Hoàng, những bài thơ được viết ra như viết nhật ký, tôi có cảm tưởng nửa khuya nào bạn tôi cũng thức dậy. Ngó qua khung cửa sổ, nhìn bóng đêm, nhìn vầng trăng. Rồi, nhìn lên kệ sách. Rồi đi tìm những cuốn sách, những bài thơ của bạn bè. Rồi viết cho người này, người nọ, cho những người còn sống, cho những người đã chết. Thi thoảng còn từ ký ức phác họa vài chân dung của bạn bè. Tôi cảm phục sức làm việc phi thường, ý chi cống hiến thanh thoát, nhưng đồng thời, tôi cũng cảm nhận được nổi cô đơn cùng cực của bạn. Nói như Đinh Trường Chinh, "cô đơn đi vào bóng tối".

Chỉ trong ba năm sau cùng, Đinh Cường đã đăng 875 bài thơ cùng với một số lượng tranh tương tự, theo ghi nhận trên blog của Phạm Cao Hoàng.  Chúng ta không cần phải trở về thi ca đời Sơ Đường, đọc Lý Thương Ẩn để cảm thán với câu "xuân tàm đáo tữ ti phương tận" mà Nguyễn Du dịch là "con tầm đến thác vẫn còn vương tơ". Chỉ cần đọc hết một phần những bài thơ đó, xem hết một phần những bức tranh đó, cũng đủ kinh hoàng với sức nhả tơ của một con tầm như chúng ta biết.

Họa sĩ Đinh Cường đã cống hiến cho hội họa Việt Nam một tài sản lớn. Nhà thơ Đinh Cường đã làm thơ rât nhiều, như một cách thể hiện cái vi tế và phong phú của đời sống, rất đặc thù, Tôi nhớ, có một câu nói ở dâu đó, "nhân tài như lá mùa thu".

Một chiếc lá mùa thu rất đẹp vừa rơi xuống!

TRƯƠNG VŨ
Maryland,  ngày 12 tháng 1 năm 2016

Chân dung Đinh Cường
sơn dầu trên bố, 24" x 20",
thực hiện tháng 9/2015.

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2025

678, PHẠM THÀNH CHÂU Cô gái Huế với tranh thiếu nữ của họa sĩ Đinh Cường

 

Còn 3 tuần nữa là tới ngày giỗ thứ mười của Nhà thơ / Họa sĩ Đinh Cường. Để tưởng nhớ người nghệ sĩ tài hoa này, chúng tôi sẽ đăng lại mốt số bài viết về ông và một số sáng tác thi ca / hội họa của Đinh Cường. Quí bằng hữu và những người yêu mến Đinh Cường có thể đóng góp cho Văn Phong những sáng tác về chủ đề này trong những ngày sắp tới. Hôm nay, chúng tôi giới thiệu bài viết của nhà văn Phạm Thành Châu – một người bạn thân của Đinh Cường thời ở Huế cũng như khi ở Virginia, Hoa Kỳ. (Văn Phong).


Nhà văn Phạm Thành Châu - Tranh Đinh Cường

Trí nhớ, khoảng năm 1970, sau khi tốt nghiệp, tôi được bổ về Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế, làm việc. Quảng Điền cách Huế vài chục cây số, có cái địa danh rất nhiều người biết là phá Tam Giang với hai câu thơ: “Thương em anh cũng muốn vô/ Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. 

Phá Tam Giang cách quận lỵ, là chợ Ngũ Xã, chừng một cây số. Thỉnh thoảng tôi ra đứng nhìn cái đầm nước rộng mông mênh đó mà chẳng thấy một chút xúc động, mơ mộng nào. Phía bên kia mờ mịt bờ dương liễu xanh thẫm, xa đến nỗi thành một vạch dài, chia cắt nước với trời. Sau lưng tôi là bờ đất với những cây dại rải rác. Làng xóm ở tít đằng xa. Sau lũy tre xơ xác là những ngôi nhà tre lụp xụp bên cạnh những thửa ruộng, những con đường quê vắng vẻ. Chiến tranh đã làm nhiều người chết, một số khác tìm về thành phố sống lây lất, chỉ còn lại những người liều thân, sống bám ruộng đồng để săn sóc mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ... 

Không rõ thời phát sinh hai câu thơ trên, phá Tam Giang nguy hiểm ra làm sao, chứ lúc đứng nhìn mặt nước yên tĩnh, bao la, tôi chẳng thấy sóng gió gì cả. Vậy mà cái anh chàng bạc tình nào đó nỡ ngâm nga hai câu thơ trên để nại lý do không thể vào Huế gặp “em”. Hay là anh ta cũng có cố gắng vượt truông nhà Hồ vào đến phá Tam Giang, thấy cảnh vật quá đìu hiu, anh ta cụt hứng, tặc lưỡi một cái và quay về với cô hàng xóm? Đã vậy có người còn bày đặt, thêm hai câu “Phá Tam Giang giờ này đã cạn/ Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm”. Cô nào mà thèm nói như thế? Thứ con trai hèn nhát, “thiếu tư cách” cỡ đó mà người đẹp phải năn nỉ? Cô gái Huế, từ bao đời nay, là tiểu thư khuê các, vương tôn công tử thiếu điều theo đuổi, chắc gì được để mắt đến, chưa nói đến gia pháp nghiêm minh, kín cổng cao tường, làm sao có chuyện liên hệ nam nữ, dù là quen biết, với một người con trai ở xa đến độ phải vượt truông nhà Hồ, vượt phá Tam Giang?... 

Ủa? Thế còn tranh thiếu nữ của hoạ sĩ Đinh Cường đâu, sao không nói đến? Xin thưa, vì yêu cô gái Huế quá nên tôi lạc đề. Mà cái tình yêu đó có nguyên nhân sâu xa nên tôi xin được phép dài dòng thêm chút nữa. 

Năm đó tôi khoảng 15 tuổi, ở Hội An. Nhân dịp nghỉ hè, tôi rủ thằng bạn hàng xóm (đó là Đỗ Đình Tân), hiện nay ở Philadelphia, làm một chuyến phiêu lưu ra Huế. Hai đứa tôi chưa biết Huế bao giờ, không có bà con nào ở Huế, vậy mà cứ đón xe đi bừa. Trong túi chẳng có nhiều, chỉ đủ trả tiền xe đò, còn thừa chút đỉnh thì ăn bánh mì không (không có nhân), uống nước máy bên đường. Chúng tôi xuống xe ở bến An Cựu, bắt đầu lang thang khắp nơi. Đến dốc Nam Giao, qua nhà ga, thăm trường Đồng Khánh, trường Quốc Học, qua cầu Trường Tiền, đến chợ Đông Ba, vào thăm Đại Nội... Nghĩa là đọc sách, rồi hỏi người ta nơi nào nổi tiếng ở Huế là đến. Buổi chiều, sau khi rã cẳng, hai đứa tôi đến bãi cỏ trên bờ sông Hương, ngay trước nhà sách Ưng Hạ, nằm dài ra, vừa chuyện trò vừa đón gió mát... Khi đèn đường sáng lên thì trời cũng chạng vạng. Hai đứa tôi chợt thấy bên kia đường, một cô bé đi qua, tay ôm chiếc chiếu. Cô lớn hơn tụi tôi khoảng vài tuổi, người mảnh khảnh, tóc ngang vai, mặt trái xoan dài trông vừa yểu điệu vừa ngây thơ. Có lẽ cô xem hai đứa tôi như em nên cử chỉ, lời nói rất tự nhiên tuy trong lúc đối đáp cô không xưng chị mà cũng không gọi tụi tôi bằng em. Giọng vui mà dịu dàng, cô nói là cho tụi tôi mượn chiếc chiếu để ngủ, sáng mai đem trả lại. Cô chỉ nhà cô, bên kia đường. Có lẽ ba mẹ cô đứng trên lầu thấy hai thằng nhỏ vô gia cư nên sai con gái đem qua cho mượn chiếu. Chúng tôi rất cảm động, lí nhí cám ơn. Đã tử tế cho mượn chiếu, cô còn ân cần hỏi thăm mấy câu “Nhà ở mô?”. “Ở Hội An”. “Hội An là ở mô?”. “Đi vô Đà Nẵng rồi đi vô Hội An, xa lắm”. “Có đi học không?”. “Có, học trường Trần Quý Cáp”. Cô cười, miệng rất đẹp, mắt cũng rất đẹp. “Con trai đi chơi sướng hỉ”. Cô đi qua đường, vô nhà rồi mà hai đứa vẫn còn ngẩn ngơ. Được người đẹp nói chuyện thân mật như thế, là lần đầu trong đời nên tôi cứ tưởng cô là cô tiên trong truyện cổ tích vậy. Và hình ảnh cô, lời cô nói, đôi mắt, miệng cười của cô, tôi nhớ mãi đến bây giờ... Buồn ngủ lại gặp chiếu hoa, lại là chiếu do người đẹp đưa, chúng tôi trải lên cỏ, êm như nằm nệm. Hai đứa tôi ngủ thẳng một giấc đến sáng. Tỉnh dậy mới biết là bị mất giày sandale (giày có quai) và cả mũ hướng đạo (mũ rộng vành) nữa. Thời đó, giày có quai và mũ rộng vành là thời trang của học trò. Đành mua một đôi dép rẻ tiền đi tạm. Chừng đó tuổi mà tôi đã biết mê gái, nên tôi dành phần đi trả chiếu. Lần này tôi thấy cô đẹp hơn hôm qua, nhưng không biết làm thế nào để kéo dài thời gian gặp gỡ, tôi đành hỏi “Xuống sông tắm có được không?” Cô nhìn tôi, mắt sáng trưng vẻ như ngạc nhiên và cô cười “Được”. Đoán chừng cô sẽ lên lầu xem hai đứa tôi làm gì nên tôi nổi máu anh hùng, cởi đồ nhảy xuống sông biểu diễn bơi lội. Cái bờ sông Hương rất cao, đứng nhìn qua bên kia, thấy gần nhưng xuống nước tôi bơi hoài, mỏi nhừ cả chân tay mà vẫn chưa đến bờ. Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp thì sông Hương đâu phải hẹp. Khi đến bờ bên kia, tôi sợ quá không dám bơi trở lại nữa. Thế là tôi cứ mình trần, mặc chiếc quần đùi ướt mem, chạy dọc bờ sông, lên cầu Trường Tiền, chạy vòng về chỗ cũ. Xứ Huế, bấy giờ, các bà gánh hàng bán ngoài chợ còn mặc áo dài, thì cảnh một thằng nhỏ cứ trần trùng trục chạy ngờ ngờ qua cầu trên đường phố là một chuyện lạ. Có lẽ họ tưởng tôi điên. Khi về đến nơi, tôi nhìn qua bên kia đường, thấy cô bé đứng trên lầu, tựa lan can, nhìn tôi cười. Tôi không nhớ mình có mắc cỡ không, nhưng tôi cũng nhìn cô cười. Và tôi yêu cô ta từ đấy. Tự nhiên mà yêu chứ chẳng có nguyên nhân nào cả. Vì yêu cô bé đó mà tôi yêu lây tất cả các cô gái Huế. Tôi yêu lòng tốt của cha mẹ cô và yêu thương luôn người dân Huế. 


Tranh Đinh Cường, Huế Nostalgia,
oil on canvas, 24" x 30".

Thời đó còn nghỉ hè, trường học đóng cửa, nhưng tôi cũng có gặp được nhiều người đẹp trên các đường phố. Cô nào cũng đẹp dịu dàng và làm điệu khi được con trai nhìn. Dĩ nhiên hai thằng nhà quê, ngơ ngáo như tụi tôi thì cô nào mà thèm làm điệu. 

Sau này, khi vào Sài Gòn học, xem triển lãm tranh của họa sĩ Đinh Cường, thấy tranh thiếu nữ của ông ta, tôi biết ngay là ông vẽ các cô gái Huế. Đúng hơn, ông vẽ cô bé mà tôi yêu. 

Nếu Từ Bi Hồng của Trung Hoa ngày xưa nổi tiếng vẽ về ngựa thì họa sĩ Đinh Cường vẽ tranh thiếu nữ là tuyệt vời. Vị nào đã sống ở Huế một thời gian, đã thấm được cái hồn của Huế, đã cảm nhận được những gì giấu kín sau gương mặt bình thản như lạnh lùng của cô gái Huế thì mới thấy tranh ông đã thể hiện được cái nội tâm bí ẩn đó. Dòng sông Hương lặng lờ, những con đường yên tĩnh. Đại Nội, lăng tẩm, đền đài lúc nào cũng như ngủ say với thời gian, ngay cả con người trên đường phố, cũng di chuyển từ tốn, thong thả... Nhưng không ai biết rằng, trong những khu vườn tưởng chừng vắng vẻ, trong những ngôi nhà cổ kính im lìm, ngay cả trong những cửa hàng buôn bán, những cuộc gặp gỡ quen biết, bao giờ cũng xôn xao những tin đồn, những lời đàm tiếu khắt khe, có khi đến cay độc của những người đàn bà, những cô gái thì thầm về những người đàn bà, những cô gái khác. Và thế là, như một truyền thống tất cả đều được giấu kín. Các cô, từ bé, đã được dặn dò là phải đề phòng một thứ gió độc, vô hình nhưng nguy hiểm, đó là dư luận. Người lớn tuổi làm gương cho lớp trẻ thấy cách thức che giấu những ý nghĩ, những tình cảm của mình. Nhưng khổ nỗi, tuổi mới lớn nào mà không mơ mộng. Tâm hồn cô nào cũng như sợi tơ trước gió, chỉ một chút giao động là đã ngân lên biết bao âm điệu ngọt ngào, thánh thót. Nhưng biết làm sao? Chỉ có họa sĩ Đinh Cường mới “vẽ” được những bâng khuâng, những mơ mộng vẩn vơ đó ẩn dưới cái vẻ yểu điệu thục nữ, dưới gương mặt dịu dàng nhưng làm như vô tình của các cô gái Huế. 

Thời còn đi học ở Sài Gòn trước 75, xem tranh Đinh Cường, bao nhiêu năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ hầu hết các tranh thiếu nữ của ông, chân tay khẳng khiu, cổ cao, ngực chưa phát triển. Đó là những cô bé điển hình trong những gia đình nền nếp ở Huế. Các cô được nuông chiều quá nên thành nhõng nhẽo, khó tính. Các bà mẹ thường kêu lên “Nó không chịu ăn. Có ngon bao nhiêu, dỗ dành bao nhiêu, cũng chỉ ăn có chút xíu. Không biết tại sao nữa?” Thì tại sao! Tuổi đó phải ăn quà rong mới lớn được. Tuổi đó phải nô đùa, cười nói, chạy nhảy mới phát triển. Mà các bà mẹ Huế thì cấm tiệt. Thỉnh thoảng lắm, các cô mới lén rủ nhau đi ăn chè Cồn, ăn bánh bèo Vỹ Dạ. Bún mụ Rớt thì chỉ nghe người khác khen ngon hoặc họa hoằn lắm mới liều đi ăn thử, để biết với bạn bè. Ở nhà cũng có bún, có chè, nhưng các cô không thấy ngon vì không có bạn bè cùng sì sụp với nhau. Các cô không thấy ngon vì thiếu cái khung cảnh chộn rộn của quán ăn, thiếu làn gió mát sông Hương, thiếu cây cỏ, đường đất khó khăn khi chở nhau trên chiếc xe đạp và nhất là thiếu bóng dáng mấy cậu học trò cứ lởn vởn, lượn lờ chung quanh với những lời chọc ghẹo vu vơ, bóng gió... 

Tôi nhớ mãi bức tranh ông vẽ một cô, giống cô bé đã cho hai đứa chúng tôi mượn chiếc chiếu. 

Cô choàng khăn nhiều màu rực rỡ. Có lẽ vào mùa thu, gió thổi tung chiếc khăn, thổi tung cả mái tóc, thổi tung cả tâm hồn mới lớn, yêu người, yêu đời của cô... Và những cành lá của hàng cây bên đường cũng lao xao, rung động. Nền là bầu trời xám nhưng vẫn còn sáng lên những tia nắng rực rỡ... Vẻ mặt cô điềm tĩnh, nhưng người xem vẫn cảm nhận được những xao xuyến trong lòng cô. Một bức khác, vẽ những cô gái đi chơi xuân. Hoa nở khắp nơi, hoa nở chung quanh các cô. Hàng cây bên đường cũng sáng lên như nở hoa. Vẫn những cô gái mới lớn nhưng trông các cô vui và bối rối, như đang túm tụm, quýnh quýu với nhau. Người xem tranh cứ tưởng vì mình ngắm các cô trong tranh khiến các cô mắc cỡ nhưng vui thích. Một bức khác vẽ một cô đi học, mắt nhìn thẳng, vẻ tự tin và “xem thường bọn con trai”. Bạn có khi nào ra Huế và đứng ngắm các cô nữ sinh Đồng Khánh đi học về chưa? Nếu bạn gặp các cô về trên con đường nhỏ trong Thành Nội thì càng thú vị. Nên thơ vô cùng. Nhưng dù gặp bất cứ đâu, cũng chẳng có cô nào thèm nhìn bạn. Có điều bạn không ngờ, chỉ một cái liếc mắt, dáng người, vẻ mặt cử chỉ bạn đã được các cô nhận biết rất rõ ràng, tỉ mỉ. Các cô còn biết bạn nhìn cô nào nhiều nhất nữa. Nhưng tuyệt đối, không có cách nào bạn gợi chuyện mà các cô trả lời. Vì hễ trả lời là các cô bị dư luận đàm tiếu ngay. Ở Huế, hàng cây bên lối đi, ghế đá công viên, đèn đường buổi tối, bờ sông lộng gió... Chúng như có mắt có tai. Cô nào gặp ai ở đó, nói gì, làm gì, tức khắc, chúng kêu lên và cả thành phố đều biết. Các cô uất ức lắm, chỉ muốn phá vỡ, đạp tung ra, nhưng không được. Vậy là các cô làm cách mạng trong văn, thơ. Những chuyện tình nóng bỏng, những giao tiếp nam nữ nồng nàn, cuồng nhiệt... Các cô tung hê, rên rỉ, chửi rủa. Và chửi rủa thẳng vào cái nề nếp cổ hủ, khắt khe, lạc hậu của dư luận xứ Huế. Đa số các nữ sĩ nổi tiếng đều là người Huế. Có một cách giải thoát nữa là các cô theo gia đình ra khỏi Huế. Lúc đó các cô như chim sổ lồng. Các cô vui tươi, thảnh thơi, thoải mái. Các cô cùng bạn bè thả rễu trên đường phố, liếng thoắng cười nói, cãi vã, sà vào hàng quà rong, chép miệng, hít hà vì cay, vì ngon, chẳng thèm nhìn chừng chung quanh như lúc còn ở Huế. Trong sân trường, các cô chạy nhảy, đuổi bắt nhau, rồi đốp chát, cả đến chọc ghẹo các bạn trai. Thời còn trung học, ở trong Nam, lớp bạn có cô nào người Huế không? Thật tuyệt vời. Cả lớp như hân hạnh có được cô bạn tiểu thư đến học chung. Bạn vào lớp mà lòng cứ háo hức, muốn nổi bật trước người đẹp, nhất là khi được cô ta chuyện trò với bạn bằng thứ tiếng Huế pha giọng miền Nam, thì tim cứ mềm nhũn ra! Giọng cô vừa thánh thót vừa ngập ngừng như nũng nịu. Nũng nịu vì biết bạn bè, cả bạn gái nữa, thương yêu, nuông chìu. 

Làm việc ở Huế, tôi thường lảng vảng trước nhà cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, trên đường Trần Hưng Đạo, nhưng hình như nhà đã đổi chủ. Không thấy cô nhưng hễ đi ngang qua là tôi vẫn dòm chừng, vừa hy vọng vừa buồn vẩn vơ. Tôi được biết họa sĩ Đinh Cường cũng ở Huế, ông dạy Hội họa ở trường Mỹ thuật, và các trường Đồng Khánh, Quốc Học, Thành Nội (hèn chi ông vẽ các cô nữ sinh Đồng Khánh hay quá!), nhưng tôi không quan tâm đến ông, chỉ chờ ông triển lãm tranh để đi xem mà thôi. Vả lại, mình không phải văn nghệ sĩ, tiếp xúc với họ, mình thành lạc lõng ngay. Chuyện gặp gỡ sau đây, bạn sẽ thấy các ông văn nghệ sĩ, càng tài hoa càng không giống “người phàm” chút nào. Một buổi tối, có người bạn đánh xe đến rủ tôi vào Đại Nội thăm họa sĩ Đinh Cường. Xe chạy qua cửa Hiển Nhơn, vào các con đường hẹp, lát đá, hai bên là tường cao, cây cối um tùm, đèn đường tù mù, vàng vọt. Đại Nội, tức hoàng cung là nơi gia đình nhà cửa ở và làm việc, nay bỏ hoang. Ban ngày, vào Đại Nội, đã thấy vắng vẻ, ban đêm lại càng âm u như cảnh liêu trai, người lẫn lộn với hồn ma, bóng quế. Nhà hoạ sĩ Đinh Cường ở cạnh trường Mỹ Thuật Huế, trước đây là văn phòng của hoàng đế Bảo Đại khi ngài còn làm Quốc trưởng. Khi chúng tôi xuống xe, đã thấy trước nhà ông mấy vị ngồi quanh một cái bàn nhỏ, tay cầm một ly rượu, im lặng như mấy pho tượng. Bạn tôi giới thiệu tôi với họ, chỉ thấy họ gục gặc đầu thay lời chào. Tôi cũng làm như vậy cho hợp cách. Tôi được biết đó là những họa sĩ Văn Đen, Mai Chửng, Hiếu Đệ, Bửu Chỉ, Trịnh Cung... và một số nhà văn nổi tiếng từ Sài Gòn ra. Rồi ông Đinh Cường từ trong nhà đi ra. Ông rót cho chúng tôi ly rượu, tôi cũng cầm và ngồi xuống như họ. Ngồi một lát, tôi chán, đòi về. Lúc đó ông Đinh Cường mới nhờ tôi sáng mai, chủ nhật, đưa giùm mấy người bạn từ Sài Gòn ra, đi xem lăng tẩm, chùa chiền. Tôi nhận lời nhưng báo trước là xe tôi tệ lắm, sợ mất uy tín mấy ông mà thôi. Nguyên nhân, là khi về nhận nhiệm sở thì không có phương tiện cho ông phó (là tôi) đi công tác. Tay sếp trưởng mới lôi chiếc xe Jeep phế thải từ thời Thế chiến thứ hai ra, kêu mấy tay thợ sửa máy cày đến, đục đục, gõ gõ, lui cui mấy ngày thì xe nổ máy, nhưng cái trần thì mục rã, thành một lỗ trống hoác phía trên. Sáng hôm sau, khi tôi đưa chiếc xe cà tàng đó đến thì các ông đứng sẵn ở đấy cứ trố mắt ra mà trầm trồ, suýt soa, coi bộ khoái chí lắm. Khi xe chạy, các ông chen nhau đứng lên, thò đầu qua cái trần xe thủng, nhìn phố xá, nói cười hí hửng như trẻ con. Thiên hạ đi đường nhìn các ông mà kinh ngạc. Cả đến ông cảnh sát chỉ đường trước Ty Thông tin cũng đứng nhìn sững, quên cả nhiệm vụ. Nhưng khi xe ra ngoại ô, đến chùa Từ Hiếu thì các ông trở lại yên lặng. Mỗi ông đứng riêng một góc. Ông thì nhìn vô chùa, ông thì ngóng ra đồi thông, ông lại quay ra mấy cái mả... Chẳng biết các ông suy nghĩ gì mà không nói với nhau tiếng nào? Tôi chán nhưng cũng đành ngồi ngáp gió, chờ các ông chứ không bỏ về được. Xem thế đủ biết các ông văn nghệ sĩ không giống ai. Nhưng cũng có nhiều người lại thích giao thiệp với họ, kiểu dựa hơi để kiếm chút thơm lây. Giống như tên đánh xe cho quan Tể tướng ngày xưa bên Tàu vậy. Người ta chào quan Tể tướng mà tên đánh xe tưởng người ta chào hắn, mặt cứ vênh lên. Thì chính tôi cũng là tên đánh xe, đang khoe nhặng lên đây nè! 

Nữa, lại lạc đề rồi! Xin lỗi, tôi xin trở lại chuyện tranh thiếu nữ của họa sĩ Đinh Cường. Khi qua Mỹ, xui khiến sao tôi và hoạ sĩ Đinh Cường ở cùng tiểu bang Virginia, nhà cũng gần nhau. Ông không nhớ ra tôi nhưng tôi thì nhận ra ông vì ông trông giống hình ông Tổng thống Mỹ trong tờ trăm đô la. 

Tôi xin phép được đến nhà ông để xem tranh. Tranh ông bây giờ tuyệt vời hơn trước, từ bố cục, đường nét đến màu sắc. Nhất là màu sắc, ông đi màu như ông đã “ngộ” với màu, chìm đắm, hòa nhập với màu vào tranh. Ông vẽ tranh bằng cái tâm, cái hồn của ông chứ không bằng tay, bằng cọ... khiến người xem rung động, hạnh phúc... Nhiều nhà văn, nhà thơ hải ngoại ra sách đều nhờ ông cái tranh bìa. Thơ, truyện có hay có dở, nhưng rủi mua nhằm sách dở thì cái tranh bìa Đinh Cường cũng an ủi rất nhiều. Cái bìa lộng lẫy, sang trọng đã đáng tiền rồi. Có lần nghe đài RFI (Pháp) phỏng vấn, ông bảo có chịu ảnh hưởng của họa sĩ Modigliani, nhất là về tranh thiếu nữ, nhưng tôi vẫn thấy tranh ông có những nét độc đáo, rất Việt Nam, rất Huế. Hình như ông đang mở ra một hướng mới cho tranh ông. Có những bức tranh, phải vừa thưởng thức vừa suy tư để tìm xem nhân vật trong tranh đang nghĩ gì, và sẽ làm gì?... Tuyệt vời nhất là tranh khỏa thân. Chỉ vài đường cọ, tất cả hiện nguyên một cô gái. “Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Nhưng trông cô ngây thơ, hoang dã và thánh thiện đến độ người xem không thấy ham muốn gì hơn là ao ước được ôm hôn cô và cảm thấy mình cũng thánh thiện như cô. 

Tôi nhớ cô bé ngày xưa, nhớ tranh thiếu nữ của ông quá. Tôi đến để tìm xem, nhưng ông không còn vẽ các cô gái mới lớn nữa mà ông vẽ các cô đã trưởng thành, nẩy nở toàn vẹn, giống như tranh phụ nữ vài thế kỷ trước. Nhưng tranh cổ điển quá khêu gợi, quá dung tục. Tranh ông kín đáo hơn. Chỉ để lộ một phần quần trắng ở chỗ mông tròn lẳn, thơm tho, như mời gọi, mà tà áo dài không che hết được. Vẻ mặt cô gái như trầm ngâm, suy tư... Tôi nghĩ đến cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, bây giờ có lẽ cô cũng đã lớn như thế. Nhưng hiện nay cô ta ra sao? Cô ta ở đâu? Cô đâu có ngờ rằng, một lần cô vô tình nhìn tôi cười mà tôi nhớ đến cô mãi. 

Họa sĩ Đinh Cường không còn vẽ tranh thiếu nữ tuổi mới lớn nữa. Ông đã để những cô bé mới lớn đó và cả những mơ mộng, nhớ nhung vẩn vơ của tôi ở lại bên kia bờ đại dương xa xôi. 

PHẠM THÀNH CHÂU

Thiếu nữ trong tranh Đinh Cường và mùa thu.
Tranh Đinh Trường Chinh.

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

677. Hoa hậu Phần Lan bị tước vương miện

 

Hoa hậu Phần Lan bị tước vương miện

vì làm cử chỉ “mắt xếch”

bị cho là phân biệt chủng tộc


Sarah Dzafce 

Sarah Dzafce, người đăng quang cuộc thi sắc đẹp chỉ ba tháng trước, ngày 11 tháng 12 năm 2025, đã bị tước vương miện sau khi đăng tải một bức ảnh trên mạng xã hội, trong đó cô dùng ngón tay kéo mắt thành hình “xếch”. 

Bức ảnh được đăng trên ứng dụng Jodel của Đức, kèm chú thích “kiinalaisenkaa syömäs”, tạm dịch là “ăn cùng với một người Trung Quốc”. 

Cử chỉ này bị coi là xúc phạm và mang tính miệt thị đối với người châu Á. 

Ban đầu Dzafce giải thích rằng cô chỉ “xoa thái dương và kéo mắt” vì bị đau đầu dữ dội. 

Sau đó, cô đã lên tiếng xin lỗi về hành động này. 

Do làn sóng phản đối dữ dội, ban tổ chức đã quyết định truất ngôi Hoa hậu Phần Lan của Dzafce, dù cô mới đăng quang hồi tháng 9. 

Cử chỉ “mắt xếch” thường bị coi là xúc phạm vì nó gắn liền với định kiến phân biệt chủng tộc đối với người châu Á. Hành động dùng tay kéo khóe mắt để tạo hình mắt hẹp đã nhiều lần gây tranh cãi trong quảng cáo, sự kiện thể thao, và đời sống công cộng.

Trong lịch sử, người phương Tây từng dùng hình ảnh “mắt xếch” để chế giễu ngoại hình của người Đông Á, coi đó là dấu hiệu khác biệt và thấp kém. 

VĂN PHONG
14.12.2025

Nguồn: Miss Finland is stripped of her crown for making 'racist' slanted eye gesture