Thứ Tư, 25 tháng 6, 2025

506. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 83 : Thơ Nguyễn Minh Nữu..

Chân dung Nguyễn Minh Nữu - Tranh Trương Vũ


THƯ GỬI NGUYỄN HỒNG KIM HẠNH
 
Thôi nhé bây giờ mây trắng trôi.
Xót xa cách mấy cũng đành thôi.
Đời này chẳng được nhìn nhau nữa.
Thương nhớ bao nhiêu cũng nửa vời.
Tìm trong tin nhắn lời tha thiết
Buốt lòng đọc lại lúc chia phôi.
 
Thôi nhé bây giờ như lá rơi
Khi nhựa đời không đến nữa rồi.
Nghiệp Duyên đã hết thì chia cắt
Thanh thản bay đi đến cuối trời
Dõi mắt nhìn theo cơn gió cuốn
Để thương cho kiếp một con người.
 
Thôi nhé bây giờ như sóng xô
Dập dờn từng lớp phủ lên bờ
Đã đến đã đi và đã sống
Hồn nhiên như tiếng khóc ban sơ
Chiêm nghiệm hiểu cho cùng Lẽ Thật
Chỉ ghé qua như một giấc mơ
 
Buông bỏ hết đi phiền lụy cũ
Thuyền nhẹ xuyên qua mọi bến bờ.
Thôi nhé bây giờ thôi khát khao
Thôi mơ thôi ước hết mong cầu
Ra đi con nhé về nơi ấy
Nơi mọi người rồi cũng sẽ gặp nhau.
 
13 PM- 04/15/2025
 
 
GẶP LẠI BẠN CŨ THỜI CHINH CHIẾN
 
Men đắng không làm ta lãng quên.
Tiếng hát chỉ làm cho nhớ thêm
Cứ tưởng qua cơn sầu, sẽ hết
Ai ngờ nối tiếp suốt ngày đêm.
Lạc lõng những lời đầy khí khái
Thổ lộ cho nguôi chút nỗi niềm
Nỗi niềm như khói xây trăm lớp
Buồn vui cười khóc cứ như điên
Bạn nhắc ngày xưa thành quách đổ
Khởi hành vào cuộc với truân chuyên.
 
Men đắng không làm vơi xót đau
Năm mươi năm có lắng được đâu
Cầu sắt gẫy ngang, quân thất tán
Áo bào sũng máu núi thâm sâu
Tây Nguyên sừng sững lưng bi tráng
Đồi trọc Chư Pao lính lạc nhau
Ta khóc có đâu vì vết cắt
Mà khóc vì chung giọt máu đào
Áo trận ngày xưa giờ thất tán
Đầu xanh nay đã bạc từ lâu
Một chân còn đứng trong trời đất
Và tấc lòng son đã bạc màu
 
Men đắng đưa vào mộng trẻ trai
Dù đời đã mỏi dấu u hoài
Bạn gợi một thời đi chiến trận
Hồn ai về những lớp sướng phai
Thấp thoáng mà sao thương nhớ quá
Những hồn bất tử giữa ngàn mây
Bạn ạ, vui một lần hội ngộ
Chắc gì có được một lần hai
“Ta tiếc đời ta sao hữu hạn” (*)
Câu thơ như một tiếng than dài
Cạn chén đêm này đời viễn xứ.
Lưu luyến thì ai cũng giống ai.
Tiếng cười rộng lượng quên oan trái
Quên cả đời ta đã quá dài.
 

Tháng 6.2025
(*) Thơ Tô Thùy Yên.


  Gặp bạn bè trên chiến trường xưa, 
sơn dầu trên bố, 18" X 24", 2008 - Tranh Trương Vũ
 
ĐẦU NĂM NÂNG CHÉN
Tặng Phạm Cao Hoàng
 
Hai chữ lưu hương tha thiết quá
Đứa thì Hải Giác, đứa Thiên Nhai.
May ở cuối trời dù tóc bạc
Kề vai vì có bạn mừng xuân

Nâng chén mừng xuân sầu cố xứ
Bên rừng tuyết phủ trắng ngàn cây.
Gánh nặng tuổi đời như đá tảng
Năm mươi năm đó dáng hao gầy.

Bạn nhắc Tuy Hòa bờ cát trắng
Nắng trên lưng “cha đạp lúa mùa hè”
Những truyền thống một đời ông vẫn giữ
Khiêm nhẫn, kiên cường, chuẩn mực răn đe
Nên trái ngọt mà bây giờ ông nhận
Là những chồi non ông đã chở che
Nhưng hạnh phúc chẳng chỉ là ăn ngủ
Tôi và ông trăn trở mỗi đêm về.
 
Hai chúng ta dù cố đứng bên lề
Quặn lòng mắt thấy với tai nghe
Miệng đắng khi tay nâng chén nước
Mây khói đâu như “Mây Khói Quê Nhà”.
Bằng hữu cũ càng ngày càng thất thoát
Ngày qua mỗi lúc một phôi pha.
 
May còn một chút lòng tri kỷ
Sớt chia nhau những lúc vui buồn.
Sa sót bài thơ thời tráng khí:
“Ba mươi chưa.” mấy thập kỷ rồi
 
Luân lạc tưởng chỉ là thoáng chốc
Ai ngờ đầu bạc vẫn tha phương
Tìm ở trong thơ hương đất cũ.
Vẫn còn thơm đắng vị thương đau.
Thế nước đã đưa đời sóng dạt
Cuối năm đầu bạc ghé thăm nhau
Vui nhé cùng nâng ly rượu nhạt
Mừng đời mấy kẻ hiểu nhau đâu.
Tâm huyết một vầng trao sóng biển
Ngàn sau ai biết, biết ra sao?


Tháng giêng Ất Tỵ 2025
Ghi chú: Những chữ in nghiêng là chữ trong Thơ Phạm Cao Hoàng.


Thứ Ba, 24 tháng 6, 2025

507. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 82 : LÊ ĐỨC LUẬN Dòng sông định mệnh.

Nhà văn Lê Đức Luận

Sinh năm 1944 tại Tuy Hòa, Phú Yên. Tốt nghiệp Khóa 1, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Cử nhân Chính trị học, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Trước năm 1975: sĩ quan phục vụ trong ngành CTCT/ QLVNCH. Đơn vị sau cùng: Ủy Ban Binh Thư thuộc Tổng Cục/ CTCT. Sau 1975, ở tù 7 năm. Sang Mỹ định cư tại Virginia vào năm 1986. Nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo năm 2023. Đã xuất bản: NGƯỜI MẸ TÌM CON (Truyện ký, 2022).                       

DÒNG SÔNG ĐỊNH MỆNH  

Dòng sông! Nó hiện hữu trong thiên nhiên từ khi khai thiên lập địa như muôn thứ đã có trên quả đất này - tự nó ngàn đời không thay đổi - gom nước từ đầu nguồn rồi khơi dòng chảy ra biển cả. Con người đặt cho nó cái tên là Dòng Sông.

Khi thêm vài chữ kèm theo với dòng sông như: dòng sông êm đềm, thơ mộng hay là dòng sông oan nghiệt, ô nhục… Các thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ dựa vào đó mà “thổi vào” dòng sông “cái linh hồn” và làm ra những tác phẩm rung động lòng người.

Nhưng có một chữ đi kèm với dòng sông - chữ “định mệnh”- đã biến dòng sông thành chỗ riêng tư. Dòng Sông định mệnh chính nó đã ấp ủ và nuôi dưỡng con người hay một cơ duyên nào đó đưa đẩy con người đến với nó. “Dòng sông định mệnh”- nơi con người đã từng gắn bó với nó và cho họ những cảm xúc dạt dào. Và chính những con người đó mới nói lên hay tạo được tác phẩm tuyệt vời.

Các văn nhân, thi sĩ khó lòng nói thay hay chế tác hư cấu. 

Trong đời, ai cũng có những kỷ niệm về một dòng sông. Có những dòng sông lưu trong ký ức, nhưng rất ít được gọi là “dòng sông định mệnh”.

Với tôi, có ba dòng sông lưu trong ký ức và hai dòng sông tôi đã sống chết với nó do định mệnh an bài. Tôi gọi đó là “dòng sông định mệnh”.

Khi thầy, cô giáo dạy tôi tập đọc và học thuộc lòng những bài văn của các nhà văn Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân miêu tả dòng sông Hương ở Huế - êm đềm, thơ mộng - dòng nước trong veo, phẳng lặng như tờ… Hỉnh ành đó đã đi vào ký ức của tôi từ thuở đầu đời.

Khi lên Trung học, học sinh phải học hai ngoại ngữ: Pháp văn và Anh văn. Sách giáo khoa thời bấy giờ có Cours  de Langues (gồm 4 quyển) cho Pháp văn; English For Today (gồm 4 quyển) cho Anh văn. Nhờ mấy quyển sách này mà tôi biết dòng sông Seine chảy qua thành phố Paris nước Pháp và dòng sông Potomac ôm ấp thủ đô Washington D.C. của Mỹ. Thời đó, nhìn trên bản đồ, thấy hai dòng sông này cách xa vạn dặm, tôi như đứa trẻ nhìn trăng, thấy chú Cuội ngồi dưới gốc cây đa và không nghĩ có một ngày mình sẽ đặt chân đến những nơi này.

Nhưng hai dòng sông đó đã đi vào ký ức, vì tôi cảm nhận cái nên thơ và lãng mạn của nó qua các bài văn. Mấy mươi năm sau, không ngờ, có một dòng sông đã trở thành “Dòng Sông Định Mệnh” của đời tôi. Đó là dòng sông Potomac.

Còn một dòng sông đã đi vào ký ức, khi tôi có ý thức về chính trị. Đó là dòng sông Bến Hải - một dòng sông hiền hòa bỗng trở thành “dòng sông oan nghiệt” - nó chia đôi đất nước tôi và lịch sử Việt Nam ghi thêm một trang ô nhục - khiến tôi ngậm ngùi!

Đã nói về ba dòng sông đã đi vào ký ức. Bây giờ, tôi kể chuyện hai dòng sông định mệnh: Dòng sông Đà Rằng ở quê tôi và dòng sông Potomac trên đất khách.

Không biết tự bao giờ, khi tôi được sinh ra đời đã có con sông Đà Rằng. Dân quê ở thượng nguồn gọi nó là con sông Ba, ở hạ lưu người ta gọi là sông Đà Rằng và sách địa lý cũng ghi như thế.

Tôi gắn bó với dòng sông Đà Rằng trên hai mươi năm và có “một trời” kỷ niệm…

Kể sao cho hết cái thích thú của những lần tắm sông cùng lũ nhóc trong làng vào những buổi trưa hè… Mùa hè nước cạn, trong veo… phơi ra bờ cát mịn. Lũ trẻ chúng tôi tha hồ bơi lội, có lúc ra giữa lòng sông. Khi nắng lên cao, lũ trẻ men theo bờ cát vào soi (1) nhổ những cây rau đắng mọc dại ven bờ về cho mẹ phơi khô để nấu chè rau đắng - hương vị nồi chè rau đắng rất đặc biệt - chỉ quê tôi mới có. Khi nào có dịp ghé quê tôi, tôi sẽ mời bạn thưởng thức chén chè rau đắng.

Đó là chuyện hiền hòa, dễ thương của dòng sông Đà Rằng vào mùa hạ.

Nhưng sang mùa đông nó “cuồng nộ” đến phát sợ - nước đục ngầu từ nguồn đổ về cuồn cuộn, chảy xiết… cuốn trôi mọi thứ ven bờ. Nhưng sau cơn “cuồng nộ”, dòng sông phủ lên những cánh đồng đất mịn phù sa mầu mỡ, giúp cho dân làng có một vụ mùa bội thu năm tới.

Còn tôi có cái thú vui vào mùa bão lũ là theo cha đặt lờ bắt cá. Các loại cá như cá rô, cá trắng, cá tràu (cá lóc) ngược dòng nước lênh láng khắp cánh đồng tìm nơi đẻ trứng. Chúng nó dại khờ chui vào những cái lờ bóng bẩy mà cha tôi đặt chỗ nước chảy. Ca dao có câu: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt/ Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”. Tôi không biết diễn tả làm sao cho hết cái “khoái” khi đi “giở lờ” (nhấc cái lờ khỏi mặt nước) - năm bảy con cá rô đỏ hoe con mắt - rùng rùng trong lờ! Cha tôi cười, còn tôi reo lên khoái chí, mở nắp giỏ cho cha đổ cá vào.

Tôi sống, tôi vui với dòng sông Đà Rằng trong thời niên thiếu. Năm hai mươi tuổi, tôi xa nó để vào Sài Gòn tiếp tục việc học hành, rồi lên Đà Lạt gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Từ đó, đời tôi nổi trôi theo vận nước với bao gian truân và nghiệt ngã - mười năm lính, bảy năm tù cải tạo làm hao gầy trí lực. Dòng sông Đà Rằng chỉ còn trong hoài niệm. Nhưng khi ai hỏi: “Mi ở xứ mô?” - tôi ví von rằng: “Tao dân Núi Nhạn, Sông Đà.” (2)    

Năm 1975, lịch sử sang trang, tưởng rằng: tôi sẽ được trở về với dòng sông cũ, bến đò xưa… Tôi sẽ đứng trên chiếc cầu dài nhất miền Trung, ngắm dòng sông quen thuộc, trông những cồn cát ven sông phủ lên màu xanh của soi dưa, ruộng mía… Xa bờ là xóm làng dân cư đông đúc và tưởng rằng tôi sẽ được sống với hình ảnh êm đềm nơi quê hương yêu dấu.

Nhưng than ôi! Tôi đã bị lưu đày nơi rừng sâu, núi thẳm… rồi biệt xứ ở vùng Thượng du rồi Trung du Bắc Việt gần bảy năm trường. Ngày được thả về, đời tôi coi như “tàn trong ngõ hẹp…”

Đời chỉ “tàn” chứ chưa “tan” trong ngõ hẹp! Nên giờ đây tôi còn có dịp viết những dòng tâm cảm gởi quí bạn đọc chơi.

Năm 1986, gia đình tôi được nguời em vợ bảo lãnh sang Canada, sau đó tôi xin qua Mỹ - định cư ở Virginia - tính đến nay đã hơn bốn mươi năm.

Trước khi rời Việt Nam đi Canada, tôi về quê thăm mẹ tôi, và ra nhìn con sông Đà lần cuối. Tôi có già đi, nhưng dòng sông vẫn thế - nó không già đi hay trẻ lại - nuớc vẫn lững lờ trôi… Không biết nó có buồn khi tôi xa nó? Nhưng lòng tôi cảm thấy ngậm ngùi!   

508. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 83 : VÕ PHÚ Những ngày đầu ở Mỹ..

Nhà văn Võ Phú

VÕ PHÚ có bút hiệu là Y THY sinh ngày 10 tháng 11 năm 1978 tại Nha Trang và hiện đang sinh sống tại Virginia, Chủ nhiệm Tạp chí Văn Bút Miền Đông. Hoa Kỳ. Ông đã xuất bản nhiều tác phẩm, bao gồm: Xóm Chài (Truyện ngắn, 2022) /Lạc Vào Cõi Thu (Thơ, 2021) /Nước Mỹ: Những Mảnh Ghép Rời (Truyện ngắn, 2020) Ngày Tháng Có Nhau (Thơ, 2018) Vấn Vương (Tập văn, 2004) /Tưởng Như Đã Mất (Tập truyện, 2003) Rằng Ta Đang Yêu (Thơ, 2001). Ông cũng từng đoạt giải Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo vào các năm 2005, 2017, 2019, và 2021. Sáng lập và điều hành nhà xuất bản LOVE. 

NHỮNG NGÀY ĐẦU Ở MỸ 

Mẹ và năm anh em chúng tôi đến phi trường Washington National Airport vào một đêm mưa gió.  Trên tay mỗi người chúng tôi đều mang một cái túi ni lông màu trắng trên có ghi chữ IOM (International Organization for Migration), bên trong là hồ sơ bệnh lý và phim chụp hình phổi của mỗi người. Đến đón chúng tôi gồm có ba tôi, anh Lý - người anh em cô cậu với chúng tôi và anh Tùng - một người bạn thuê phòng chung với ba. 

Vừa ra khỏi phi trường, mưa và gió tạt vào người. Chúng tôi ai cũng co ro trong chiếc áo mỏng. Mưa một lúc một nặng hạt. 

Anh Lý và anh Tùng dặn cả nhà chúng tôi đứng trước cổng để hai anh chạy đi lấy xe đón chúng tôi về. Chiếc xe hiệu Mercury đời sáu mươi chín màu vàng kem của ba vừa trờ tới để đón chúng tôi. Anh Lý và anh Tùng giúp chúng tôi chất đồ lên xe. Sau khi bỏ tất cả hành lý xong, anh Tùng lái chiếc xe của ba đi được một đoạn, chừng vài mét, chiếc xe bỗng giật giật vài nhịp rồi tắt lịm. Nó nằm ì ra đó như một chiếc xe tăng trong viện bảo tàng. Ba tôi nhờ anh Lý gọi xe đến câu về nơi sửa chữa mà anh quen biết. Rồi gia đình chúng tôi gọi thêm xe taxi chở về. Về đến nhà, chúng tôi thay đồ và nằm lăn ra sàn nhà ngủ. 

Sáng hôm sau, tôi dậy sớm rón rén mở cửa chính đi ra ngoài hít thở không khí. Trong căn phòng nhỏ mà ba thuê quá ngột. Vừa mở cửa ra, hơi lạnh lùa vào cho tôi có một cảm giác rất dễ chịu. Tôi mang đôi dép lê và đi dạo trước sân vườn. Những cọng cỏ xanh còn ướt đẫm sương đêm liếm vào đôi chân nhồn nhột ẩm ướt nhưng rất thích. Tôi đưa mắt nhìn quanh khu vườn trước sân nhà. Bên phải là những khóm hoa hồng đỏ thắm, xung quanh là thảm cỏ xanh được cắt tỉa gọn gàng. Bây giờ là vào thu, lá bắt đầu đổi màu, những màu vàng đỏ của lá phong đu đưa trước nắng sớm như một bức tranh.  Tôi nhìn đến mê mẩn. Một cơn gió nhẹ thổi qua, chiếc lá phong đỏ già xoay tròn rơi xuống đất. Tôi đi đến nhặt chiếc lá lên, ngắm nhìn. Sau đó mở cửa phòng vào nhà gọi anh tôi dậy. Tôi khoe với anh tôi lượm được chiếc lá đẹp. Anh mở mắt nhìn chiếc lá, nhìn tôi. Anh hất tay tôi ra và nói: 

- Mệt mày quá, để cho tao ngủ. Sao mày không ngủ?  Dậy sớm chi vậy? 

- Dạ tại em không ngủ được... 

Tôi rón rén lục va li hành lý tìm chiếc áo ấm mỏng để mặc. Khoác áo xong, tôi mở cửa ra khỏi nhà và đi dạo quanh xóm. Buổi sáng trong xóm im lặng. Tôi có thể nghe tiếng thì thầm của gió, của lá phong rơi. Không như ở Việt Nam, trời vừa hửng sáng là bao nhiêu tiếng bóp còi inh ỏi của xe cộ, tiếng rao bán hàng, tiếng gà gáy, tiếng chó sủa và vô số tiếng ồn khác. Đang đi dạo một hồi, tôi nghe tiếng chó sủa. Sợ tiếng chó sủa làm thức giấc mọi người, nên tôi trở về nhà. 

Mọi người trong nhà đã thức giấc gần hết. Khi tôi mở cửa bước vào, trong phòng khách rất nhiều người lạ. Tôi không biết họ là ai cho đến khi ba tôi giới thiệu và giải thích cho mẹ cùng các anh tôi. Vốn dĩ, căn nhà nhỏ mà ba thuê phòng chung gồm có bốn phòng, ba tôi thuê một phòng, anh Tùng (người đón chúng tôi ở phi trường) một phòng, chú Hạnh một phòng, và gia đình chị Ngọc Anh gồm bốn người một phòng. Sau hồi chào hỏi, ba tôi mở tủ lạnh ra lấy sữa, cereal, chuối và bánh ngọt cho chúng tôi ăn sáng. Lần đầu tiên tôi thấy mọi người ăn sáng với sữa và chuối. Tôi đứng im nhìn Ngọc Hồng và Ngọc Hà, hai đứa con gái của chị Ngọc Anh, ăn. Tôi nghĩ bụng: "buổi sáng mà ăn lạnh vậy chút xíu sẽ đau bụng cho coi". Tôi thường nghe Nội tôi nói vậy khi bà còn sống với chúng tôi. Nhìn chén sữa với cereal và chuối nổi lềnh bềnh, tôi không thể nào ăn được. Tôi thèm một gói xôi đậu hay một cái bánh ú đầu đường hơn những thứ mà ba đã đưa cho chúng tôi ăn. Tôi hỏi ba: 

- Ba ơi có cơm nguội không?

Chị Ngọc Anh và mọi người nhìn tôi cười. Ba nói:

- Làm gì có cơm nguội. Có cơm nóng được không?

- Dạ được. 

Ba tôi bới cho tôi một chén cơm và xịt ít nước tương đưa cho tôi. Cơm của Mỹ có khác, hạt cơm trắng tưng và thơm. Tôi ăn một hơi hết sạch chén. Sau đó còn bới thêm mấy chén nữa. Ăn sáng xong, anh Tùng gọi mấy anh em chúng tôi lại và nói: 

- Hôm nay xe của ba mấy đứa còn đang sửa chắc không xong đâu. Thôi để anh chở mấy đứa đi vòng vòng siêu thị Mỹ cho biết nhé? 

Chúng tôi được anh Tùng chở đến một siêu thị gần nhà. Lần đầu trong đời tôi được thấy siêu thị với đủ loại rau quả xếp ngăn nắp và sạch đẹp đến vậy. Anh Tùng nói với chúng tôi: 

- Mấy đứa muốn ăn gì thì cứ lấy nhé. Đừng lo, mấy thứ trái cây này rẻ lắm. .. 

Nhìn những quả táo, quả lê, quả cam vv…vv… tôi thèm lắm, nhưng còn sợ nên chưa dám hỏi. Thấy tôi đứng nhìn những quả lê xanh, anh vội lấy túi bỏ vào gần chục trái và hỏi mấy anh em tôi còn thích mua gì không anh mua cho. Anh tôi mua thêm vài trái táo đỏ, một bịch nho xanh và một ít bánh ngọt. Sau đó anh Tùng chở chúng tôi về nhà rồi anh đi làm. 

Về đến nhà, tôi lấy một trái lê xanh lên ngắm. Nhìn trái lê xanh trên tay, nước mắt tôi lại ứa ra. Tôi nhớ lại quãng thời gian trước cách đây vài năm khi tôi còn ở Việt Nam. 

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

505. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 80 : Thơ Phạm Nhuận.


Nhà thơ Phâm Nhuận - Tranh Trương Vũ

Nhà thơ Phạm Nhuận sinh tại Vỹ Dạ, Huế, trong một gia đình có truyền thống văn chương. Trước 1975, sống ở Sài Gòn. Sau 1975, ông định cư hơn 10 năm tại Montréal, Canada, rồi chuyển sang sống cùng gia đình tại Maryland, Hoa Kỳ. Đã xuất bản: Mặt trời và giòng sông (Ca Dao xuất bản, 1970).  

TAM MUỘI HỎA


(Kính dâng lên Sư Phụ, Đại Sư Garchen Rinpoche,
người đã trao truyền ngọn hỏa hầu tam muội cho tôi)
 
Trùng trùng lửa thế gian
Cháy từ vô lượng kiếp
Chúng sanh và lửa đỏ
Dốc núi quay về đâu?
 
Ngồi gầy đốm lửa Tâm
Sáng bên bờ bỉ ngạn
Ngược xuôi mấy con đò
Sóng tràn tâm diệu giác
 
Lửa đời và lửa Tâm
Thênh thang cùng mây trắng
Lửa thành lửa bất nhị
Nhất như thuở uyên nguyên
 
Ngồi gầy đốm lửa Tâm
Cháy bùng năm biển lửa
Bằng thần lực sinh khí
Của tiếng thở Om A Hum
 
Các quyền năng linh thiêng
Được thức tỉnh thần biến
Hiển lộng cùng khai phóng
Cái bất khả tư nghì
 
Một nét lửa xuất hiện
Giống như đường tên bay
Cho đến khi toàn thân
Trở thành một tuyến lửa
 
Tuyến lửa thành biển lửa
Đầy giông tố bão bùng
Cường lực của nội hỏa
Nung chảy mọi chướng ngại
 
Rồi ngọn lửa thu nhiếp
Rực sáng cùng nội quán
Thân hiện hữu không còn
Tan trong lửa tối thượng
 
Một cái gì xuất hiện
Chính giữa chân và tay
Như bánh xe chuyển động
Các quyền năng linh thiêng
 
Khi ngọn lửa huyền bí
Đột biến ngọn sóng hàn
Làm rung chuyển toàn thân
Đảo lộn tận gốc rễ
 
Tôn nghiêm thân lắng nghe
Tôn nghiêm thân thấy biết
Cái xuất thần nhập hóa
Thần biến và linh thiêng
 
Có vô lượng rung cảm
Khuếch đại đến vô biên
Tràn đầy thân diệu lạc
Đến tận cái vô cùng
 
Trung khu đan điền, tim
Ngập tràn niềm hứng khởi
Lực tri kiến nội quán
Của ngọn lửa huyền cơ
 
Vô tận sóng hoan thích
Nở tung thân hoan lạc
Theo từng hơi thở một
Niềm sung sướng vô biên
 
Trong trung khu hạ phần
Trùng trùng cơn địa chấn
Cường lực của nội lạc
Đẩy lên tới thượng phần
 
Các quyền năng linh thiêng
Hợp nhất ba giòng mạch
Cùng cường lực nội lạc
Mở tung khu thượng phần
 
Hoa sen nghìn cánh nở
Diệu lạc khắp toàn thân
Các trung khu tháo mở
Thân trong suốt vô ngần
 
Cùng lúc sinh ngoại lạc
Bầu khí bọc ngoài thân
Rung động đến tận cùng
Các tế bào thân ngoại
 
Không sót một tế bào
Với vô lượng rung cảm
Đắm say trong đại lạc
Sự xuất thần nhập hóa
 
Lửa trí tuệ rực sáng
Cái “Bất khả tư nghì”
Đắm chìm thân trong suốt
Nhất thể ngọn lửa huyền


TRƯƠNG HỒNG SƠN, CÁI TÂM MÂY TRẮNG


hư vô áo nắng vẫy chào
bóng ai ngồi lạnh hồn chao mái dầm
tiếng chim gõ kiến đục trầm
từ trong gỗ nẻ nụ mầm hoa xuân
núi sông tàng ẩn kinh luân
tùng bách nắng nhuộm bồ quân áo chiều
ấm lòng bếp lửa nguyên tiêu
vườn ngoài vừa mới cội điều trổ bông
câu thơ ủ giọt nến hồng
trang sách thầm lặng cầu vồng sắc bay
đất trời chuyển gió heo may
gầy hơi khói trấu mắt cay ngõ rừng
nghe ra cả tiếng muôn trùng
thiên thu còn lại nửa vừng trăng xanh
tiêu sơ chiếc lá đoạn đành
thường hằng giọt nước dỗ dành ngọn cây
rêu xanh mất tuổi tháng ngày
thư kinh khép lại trang đầy trang vơi
ngủ quên quán trọ đất trời
cái tâm mây trắng nụ cười ngôn phong
lạc giòng cá động vàng rong
chân cầu tịch tĩnh đục trong đi về
bước chân tĩnh lặng trầm mê
vòng quay vạn vật rớt về tịnh không
tiếng gà gọi giữa mênh mông
thoảng trong sâu thẳm tiếng sông gọi đò
lạnh bấc trầm mặc cánh cò
quay đầu dốc núi đâu bờ tử sinh
 
Maryland, 2000

 
PHẠM NHUẬN
  

504. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 79 : PHAN TẤN HẢI Thiếu nữ trong ngôi nhà bệnh.

 

Chân dung Phan Tấn Hải - Tranh Tạ Tỵ

Thường ký tên Phan Tấn Hải (tên khai sinh), Nguyên Giác (Pháp danh). Sinh  năm 1952 tại Sài Gòn. Từ trại tỵ nạn ở Indonesia đến Virginia vào giữa năm 1984 và sống ở đó cho tới cuối năm 1989 thì chuyển sang California. Viết nhiều thể loại, cho nhiều báo. Tác giả, dịch giả một số sách: - Cậu Bé và Hoa Mai (Tập truyện, Nhân Văn, 1986), - Một nơi gọi là Việt Nam (Thơ, 1987), Tuyển tập thơ nhạc "Hoa Bay Khắp Trời" (Nhạc sĩ Trần Chí Phúc phổ nhạc, 2015), - Viết từ phương xa (Truyện, bút ký. 2019) và hon 20 cuốn sách khác. 


THIẾU NỮ TRONG NGÔI NHÀ BỆNH

Phải nhiều tháng sau, tôi mới biết cô nàng bị bệnh ung thư. Gần như là không ý thức, tôi từng nhìn những dãy chai thuốc đủ nhãn hiệu, thuốc viên, thuốc nước, thuốc bột trong ngăn tủ phòng nàng và hoàn toàn không thắc mắc hay có ý niệm gì về sự có mặt của chúng. Cũng thường thôi, có nhiều người vẫn thích để đủ thứ thuốc men thu thập nhiều năm ở một góc tủ như thói quen ở Việt Nam mà không bận tâm gì đến ngày tháng có thể hư hao chi cả, và nếu là trụ sinh thì càng dễ tính, cứ gom lại thật nhiều rồi sẽ gởi về nước cho thân nhân. Lại nữa, các loại thuốc mua từ toa bác sĩ thì chẳng ghi chú gì, chỉ có mấy dòng ghi tên thuốc và ngày uống mấy viên thôi, chẳng ai biết nổi là thuốc hay kẹo.

Nhưng càng lúc nàng càng xanh xao, nét mặt tái nhợt đi, buổi sáng, buổi chiều, buổi tối. Nói rõ các buổi như vậy vì thời gian đầu hai đứa gặp nhau, sắc mặt nàng thay đổi theo thời gian trong ngày. Buổi sáng tươi tỉnh, hồng hào, nàng rực rỡ, rạng ngời. Buổi chiều nàng ủ dột, buồn ra mặt. Và buổi tối nàng thường than mệt và đòi về nhà. Ðôi khi tôi chỉ hỏi, tại sao vậy, và rồi thôi. Không bao giờ tôi nghĩ cần phải vặn hỏi ai điều gì. Ðiều gì người ta không nói, thì mình không cần phải thắc mắc. Chơi với nhau là phải tin nhau, tin cả lời nói và phải tin cả sự im lặng, tất cả đều có những ý nghĩa gì đó. Vả lại nếu xét về vai vế thì tôi lớn hơn nàng nhiều chứ, cả về tuổi nữa, và người lớn thì phải có phong cách người lớn, nghĩa là biết tôn trọng cả những điều người thấp vai không nói.

Tôi chỉ nói đùa là tôi không cần mua đồng hồ, vì chỉ cần nhìn mặt nàng đã có thể đoán được mấy giờ rồi. Thí dụ đôi mắt rực sáng như vậy, gò má hồng như vậy, nàng xông xáo như vậy, nhất định phải là trong khoảng bảy hay tám giờ sáng. Hay là khi đôi mắt bắt đầu trở nên xa vắng như đang hướng về một chân trời nào đó thì trời hẳn đã về chiều. "Tùy theo mức độ xa vắng của mắt em, anh sẽ gọi được giờ, thí dụ như bây giờ phải ước chừng là sáu giờ chiều," tôi đã nhiều lần nói với nàng như vậy khi ngồi ở quán Baron. Và khi nàng đứng lên đòi về, tôi gấp giấy tờ sách vở lại, thì mặt nàng hẳn đã nhạt ra, có khi những ngón tay còn run run nữa. Bấy giờ tôi lại đoán được là chín hoặc chín giờ rưỡi khuya.

Tôi nhớ, lần đầu tiên gặp lại nàng là ở trong quán Baron. Bấy giờ là chiều lắm rồi, tôi đang ngồi trong quán, lúc đó thật vắng, đọc những xấp bài vở, báo chí đủ loại thì cô nàng đứng ngay trước mặt tôi, gọi tên tôi và hỏi tại sao tôi lại xuất hiện ở vùng thủ đô tị nạn này. Tôi ngẩng nhìn lên, chỉ nhớ mang máng đã gặp nàng đâu đó trên đảo. Nhưng tôi chẳng mấy khi nhớ được những chuyện gì xảy ra hôm qua, huống gì là của nhiều năm trước. Cô nàng tự giới thiệu là có quen tôi khi còn trên đảo, và anh không thể nào nhớ mặt được những kẻ đứng thật xa và nói thật nhỏ.

Tôi đã tự trách mình vô tâm và trả lời rằng, ai cũng có thể nhớ được một tên nổi tiếng ở dơ, lười tắm và làm đủ thứ chuyện lung tung cho đồng bào như vậy; tôi hơi ngạc nhiên nghe mình tự nói xấu cách hồn nhiên, và lại xin lỗi về trí nhớ của mình. Sau này tôi có hỏi lại anh Trung, người Ðạo Trưởng của tôi, thì anh cũng chẳng thể nhớ nổi cô bé nào như vậy cả. Có hàng trăm cô bé thế chứ, cậu nói thế làm sao tôi nhớ nổi, anh trả lời nhát gừng. Tôi đã trả lời, chỉ có một thôi, một cô bé kỳ dị như vậy đấy, với cả một pharmacy trong phòng. Có hề gì đâu, cũng như trong phòng cậu là đủ thứ sách thôi, anh Trung đáp. Chịu thua, tôi không bao giờ cãi được với ai.

*

Buổi chiều, khi chạng vạng tối, tôi thường đến Baron ngồi đọc, ghi chú và suy nghĩ về những điều phải viết. Cà phê ở đây thì đậm, uống vào có thể thức tới hai, ba giờ sáng, còn bánh mì thì có thể thay cơm được. Quán thường vắng vào chiều và tối. Ðiều hay nhất là không có nhạc vì quán thuộc loại bình dân. Tôi không ưa những quán nhạc ồn ào, đông đúc, mịt mù khói thuốc. Ngồi ở đây, nhìn qua những khung kính ra đường Brookhurst, nhìn buổi chiều, nhìn đêm, nhìn chiếc xe cà tàng của mình bên ngõ hẻm, rồi cúi xuống đọc trên những trang giấy, rồi có khi chạy tới nhà tên bạn hỏi han đôi chuyện hoặc vào bàn gõ lóc cóc dăm bài thơ cho nó đỡ mệt. Tôi đã có thói quen sống hạnh phúc được trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi bị gây rối vì chuyện tiền bạc hoặc cộng đồng.

Những thời gian về sau, nàng thường ra ngồi với tôi. Có khi hỏi chuyện chán chê, rồi lại im lặng, rồi lại đọc những xấp bài tôi để trên bàn, đủ thứ nhảm nhí, và có khi về Thiền, về chính trị, hoặc thứ gì cũng đôi chút nghiêm trang, vân vân. Rồi lại hỏi những câu không đâu vào đâu. Chẳng hạn như, “Làm thế nào để khỏi bệnh?” Lần đó, tôi đáp, “Tại sao cần khỏi bệnh chứ. Bồ tát bệnh vì chúng sanh bệnh cơ mà.” Nàng đáp, “Hôm bữa anh la um xùm khi mới bị nhức răng sơ sơ, thì chúng ta đâu cần phải bệnh để hiểu được Kinh Phật.” Tới những chỗ lý luận cụ thể về cuộc đời thì tôi lại im lặng, bởi vì thực sự tôi chẳng hề hiểu chi về cuộc đời cả.

503. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 78 : Ý NHI NGUYỄN THỊ DUNG Bức tường cẩm thạch màu đen.

 


Ý Nhi tên thật là Nguyễn Thị Dung.  Nguyên quán: Hải Dương, Bắc Việt. Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn, ban Tham Sự năm 1970. Làm việc tại Bộ Tài Chánh VNCH từ 1970-1975. Vượt biên và định cư tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ từ năm 1984 cho đến nayLàm việc tại Bưu Điện USPS từ năm 1988, về hưu năm 2013. Sách xuất bản: Góp Nhặt Hương Đời - 2025.

  

BỨC  TƯỜNG  CẨM  THẠCH   MÀU  ĐEN

       Chúng tôi sống tại nơi đây, vùng phụ cận Thủ Đô Washington D.C.  từ những ngày vượt biển đến Indonesia và định cư ở tiểu bang Virginia đã khá lâu, nhưng chưa có dịp đến thăm bức tường được xây bằng đá cẩm thạch màu đen mang  từ Ấn Độ vào năm 1982. Bức tường này được dùng để khắc tên những người chiến sĩ Hoa Kỳ đã chết hay mất tích từ năm 1959 đến 1975 trong cuộc chiến tại Việt Nam theo thứ tự ngày tháng đã chết hay mất tích.

      Từ khi cháu bé đầu lòng chập chững biết đi, chúng tôi và hai cô bạn share phòng ở chung cư thường hay đến công viên ở D.C. dạo chơi vào những buổi chiều mùa hè vì công viên nơi đây rất rộng, đẹp, mát và có nhiều bóng mát, ngay bên hồ Phản Chiếu (Reflection Pond) vì chung cư không có máy… điều hòa không khí. Chúng tôi đi dạo theo bờ hồ, ngắm những dàn vịt thành thơi bơi trên mặt hồ phẳng lặng êm đềm dưới nắng chiều hay lúc hoàng hôn, đẹp và thơ mộng vô cùng nên không muốn đi bộ xa đến thăm Bức Tường Cẩm Thạch Màu Đen vì cháu còn nhỏ.

       Khi cháu bé gần 2 tuổi thì chúng tôi đã có công việc làm ổn định và mua nhà để có chỗ ở rộng rãi và có máy lạnh cho thoải mái, đồng thời hai cô bạn của tôi cũng lập gia đình và có nhà riêng. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau vào dịp sinh nhật  của các cháu và những buổi chiều trốn nóng ra công viên bên hồ Phản Chiếu chỉ còn là những kỷ niệm khó quên  của những ngày mới đến Mỹ.  

      Một điều rất lạ, không biết là chỉ có chúng tôi hay là cũng như những người ở vùng D.C., là chúng tôi ít khi tự đi thăm những địa danh nổi tiếng ở đây như Lincoln Memorial, Washington Monument, Vietnam Veterans Memorial …mà chỉ đi khi có họ hàng hay bạn bè đến thăm và tiện dịp đưa họ cùng đi thăm những thắng cảnh đó. Chỉ  có một ngoại lệ là  hầu như ai ở đây, ít nhất cũng có một lần đi ngắm hoa anh đào nở quanh hồ Tidal Basin, hay là rất thường xuyên mỗi năm như chúng tôi, có lẽ vì cảnh hoa đào bên hồ quá thơ mộng  và đẹp.

      Thế rồi vào một ngày mùa xuân, khi chúng tôi đã về hưu và với những hình ảnh của ngày Sài Gòn thất thủ  vào tháng 4/75, những tang thương đau buồn của những ngày cũ làm tôi chợt nhớ đến những người chiến binh Hoa Kỳ đã nằm xuống trên quê hương của chúng tôi để bảo vệ những gì chúng tôi đã mất và lưu lạc đến giải đất thiên đường của họ. Tôi muốn đến thăm họ để tri ân và cám ơn sự hy sinh của họ để bảo vệ tự do và dân chủ của miền Nam, của VNCH.

      Mùa hoa anh đào đã qua, khách đến thăm Thủ Đô Washington D.C.  không còn quá đông, hy vọng có chỗ đậu xe nên chúng tôi lái xe đi vòng vòng quanh khu gần Vietnam Veterans Memorial mà chúng tôi gọi là Bức Tường Cẩm Thạch Màu Đen (cũng như Washington Monument thì gọi  là  Cây Viết Chì) tìm chỗ đậu xe, may sao đến gần chỗ đi bộ đến đài, có xe ra và chúng tôi vào ngay chỗ trống.

     Buổi sáng mùa Xuân, trời hơi lành lạnh, tôi chỉ quàng chiếc khăn san quanh cổ áo cho ấm, rồi thong thả đi vào công viên trong nắng hồng đẹp của buổi sáng. Dù là tôi đã thấy hình bức tường đá đen này nhiều lần trên TV và phim ảnh, nhưng nay thấy tận mắt mới thấy sự kiến trúc của bức tường này thật là đặc biệt và tân kỳ.  Bức tường hình chữ  V với góc tụ điểm là 125 độ, được xây bằng những tấm đá cẩm thạch màu đen đã được đánh bóng. Hai bức tường đen, mỗi bức dài khoảng 246 feet, tại tụ điểm có chiều cao hơn 10 feet và chiều cao giảm dần cho đến cuối tường chỉ còn khoảng 8 inches. Bức tường đen hướng về phía đài Washington Memorial, phía trên cùng khắc năm 1959 và hàng kế tiếp khắc tên người chiến binh chết đầu tiên, tiếp theo là tên những người chiến binh chết theo thứ tự thời gian, và được khắc vào tường đá đen bằng màu trắng. Bức tường đen thứ hai cũng như thế và tên người chiến sĩ chết cuối cùng năm 1975 vào hàng cuối ngay góc tụ điểm. Nhìn tổng quát, ngay góc tụ điểm cuối vùng là 1975 và tụ điểm cao nhất là 1959.

     Chúng tôi đi bộ dọc theo đường bên cạnh bức tường, đến tụ điểm thì dừng lại, tôi để bó hoa trong khoảng trống nhỏ dọc theo chân tường, và thấy vài kỷ vật mà thân nhân khi đi thăm để lại. Khi ngước nhìn lên, tôi thấy bóng dáng của mình lẫn trong  tên  của những người chiến binh khắc bằng màu trắng trên bức tường đen trong như tấm gương, chợt thấy lòng mình chùng xuống trong những nỗi cảm xúc, như hồn mình hòa đồng cùng với họ trong cõi thiên thu… mơ hồ  như có tiếng súng vang vọng ngày nào trên những nơi mà họ chiến đấu và bỏ mình trên đất nước của tôi … nước mắt tôi rơi trên cánh hoa để dưới chân tường... tôi vuốt nhẹ qua những mẫu tự thằng hàng thành tên của họ, giống như trên những mộ bia… Xin cảm ơn các chiến hữu  đã  chung lưng chiến đấu với chúng tôi để bảo vệ tự do và dân chủ cho quê hương thân yêu khốn khổ của chúng tôi…

     Trong khi đi dọc theo bức tường thứ hai, lòng tôi càng bâng khuâng xúc động hơn khi thấy có một người lớn tuổi, mặc y phục chiến binh đã cũ, ngồi trên băng ghế đối diện với bức tường, bên cạnh có chiếc xe lăn, yên lặng nhìn vào bức tường đá đen…có lẽ cũng để hồn chìm vào trong những ngày tháng cũ… những chiến trận đã qua và những chiến hữu chỉ còn là những tên khắc trên bức tường… 

     Qua bức tường đến đến khu công viên rộng hơn có kỳ đài treo cờ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ngay dưới là cờ POW * MIA, và vài tượng đài như Tượng Đài Ba Người Lính, tượng đài Người Nữ Y Tá đang băng bó cho thương binh… Thường thì có rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm viếng Công Viên Quốc Gia tại nơi đây để chiêm ngưỡng những di tích lịch sử, nhất là vào mùa xuân hay mùa hè vì khí hậu dễ chịu và có nhiều cảnh đẹp.

      Sau lần viếng thăm Bức Tường Cẩm Thạch Đá Đen tưởng niệm những chiến sĩ đã nằm xuống trên đất nước tôi, tôi không đến thăm lại nữa vì không muốn nhớ lại những kỷ niệm đau buồn, dù là khi đi ngắm hoa anh đào nở bên hồ Tidal Basin gần nơi đó…Xin cầu nguyện cho những người chiến sĩ mãi mãi được yên nghỉ  bình an.

 Ý NHI NGUYỄN THỊ DUNG


502. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 77 : TT -THÁI AN Cái nghề chịu đấm ăn xôi.

 

Trong ảnh - Bà TT - Thái An
                                       

Thái An sinh năm 1954 tại Hải Phòng. Được 2 tháng tuổi, mẹ bế di cư vào Nam. Di tản vào tháng 4, 1975. Theo cha đến Đài Loan. Ở Đài Loan đến năm 1989 thì qua Mỹ. Bachelor of Science in Management Information Systems (George Mason University, 1996).  


CÁI NGHỀ CHỊU ĐẤM ĂN XÔI 

Mỗi thứ Ba, trong giờ đi lấy thực phẩm miễn phí cho những người già trong cái nhà già này, các nhân viên săn sóc người già (personal Care Aid/PCA) phải thay mặt bệnh nhân của mình mà đi lấy thực phẩm cho họ.  Đó là lúc các bà nhân viên này có cơ hội gặp nhau hầu như đủ mặt. 

Gặp nhau thì có nhiều chuyện để nói, để than thở về bệnh nhân của mình. Dù biết rằng không nên kể về đời tư của bệnh nhân, nhưng hễ ảnh hưởng đến việc làm của mình thì nó trở thành chuyện công, chuyện tập thể của cái cộng đồng săn sóc người già yếu bệnh hoạn này.  

Đôi khi trong lúc đi giặt quần áo cho bệnh nhân ở phòng giặt hay trong lúc ăn trưa trong phòng nghỉ họ cũng gặp nhau, hay thỉnh thoảng đi đổ rác họ cũng gặp nhau.  Họ thường trao đổi số điện thoại để khi rảnh rỗi thì gọi cho nhau.  Họ dễ thông cảm với nhau vì là đồng nghiệp.  Vì thế, bệnh nhân nào dễ tánh, dễ chịu hoặc bệnh nhân nào khó tánh, khó chịu hay quái ác thì toàn thể cộng đồng PCA đều hay biết.  Vì họ có băng tần truyền thanh của họ, chẳng ai cấm được. 

Tuy nhiên, nếu hai hay ba người làm chung cho một bệnh nhân, người làm ca ngày, người làm ca đêm thì lại hay xảy ra xung đột.  Vì người làm ca ngày thường phải làm nhiều việc nhà hơn, như thổi nấu, giặt quần áo, dọn dẹp, lau chùi, cho bệnh nhân uống thuốc đúng giờ, thay tã, thay áo, thỉnh thoảng còn phải theo bệnh nhân đi bác sỹ, đi chợ.  Người ca đêm nếu biết việc thì phải dọn dẹp phần rác của mình, phần cần giặt giũ của mình.  Nhất là nếu bệnh nhân có làm ướt giường, ướt quần áo ban đêm khi ngủ thì người ca đêm nên thay ra giường và quần áo cho bệnh nhân, sau đó phải giặt ngay.  Nếu bỏ lại cho người ca ngày vào xử lý thì dễ đụng độ lắm.

Vì thế không phải mấy người làm nghề săn sóc người già đều thông cảm nhau hết đâu.  Có chị Hậu làm nhân viên săn sóc cho cụ Bánh, chị làm ca ngày.  Chị rất ghét anh Sơn là người làm ca đêm cho bác Bánh vì chị bảo anh này không chịu dọn dẹp phần của anh, để lại cho chị vào dọn.  Vì thế có lần chị yêu cầu công ty cho anh Sơn nghỉ, công ty giảng hòa giữa hai người. Chị ức lắm, bận sau chị xúi bác Bánh gọi vào công ty yêu cầu công ty cho anh Sơn nghỉ.  Trong lúc bác nói chuyện trong điện thoại với công ty, chị đứng bên cạnh nhắc bác: “Nói cho anh Sơn nghỉ, kiếm người khác thế”.  Anh Sơn cũng chẳng vừa, thỉnh thoảng anh lại biên thư kể những cái sai quấy của chị Hậu và xin công ty cho chị Hậu nghỉ.  Họ ghét nhau như kẻ thù. 

Chị Bông làm PCA cho bà Sáu được đúng một tuần thì xin nghỉ, đến lượt chị Công vào làm cũng chỉ vài ngày là xin nghỉ.  Công ty của bà Sáu đã gửi cả thảy 5 người đến làm cho bà mà người làm lâu nhất cũng chỉ được hai tuần.

Dĩ nhiên công ty phải hỏi 5 bà PCA này cho ra lẽ.  Theo như lời tường thuật của 5 bà này, thì bà Sáu có cái miệng dơ dáy, chuyên chửi tục.  Bà chửi PCA luôn mồm và đổ thừa người làm ăn cắp của bà từ cái giẻ lau bàn đến cái khăn lau tay, chai dầu gió, hay đôi dép cao su đã mòn.  Bà chửi rất tục, cho PCA ăn đủ thứ dơ bẩn nhất của bà.

Có lần bà Sáu đổ thừa chị Hà ăn cắp cái khăn lau tay và chửi rủa mày tao thậm tệ, hạ nhục thậm tệ: 

-Bộ mày lấy cái khăn tay của tao về lau bàn thờ hả?  Mày mà không trả lại cho tao, tao trù cho toàn gia của mày bị chết tươi, ra đường là bị xe đụng chết bất đắc kỳ tử. 

Tức quá, chị Hà chửi lại ngay, không kém phần hiểm độc: 

-Nè!  Tôi nói cho bà hay cái bàn thờ của tôi quý lắm à nghe.  Phải mua khăn mới sạch sẽ mới xứng đáng chùi à nghe.  Còn cái khăn tay cũ xì của bà cho không ai dám rờ tới, đừng nói đem ra lau bàn thờ.  Bà rủa tôi làm sao thì bà phải chịu làm vậy!  Bà vu cáo cho tôi, bà phải bị lăn ra chết bất tử.  Kiếp sau bà phải làm con chó ăn cứt của mọi người bị bà chửi rủa, vu oan. 

501. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 76 : Thơ Lê Mỹ Hoàn.

                                                                                                         


Tên thật Nguyễn Thị Mỹ, sinh quán Hải Dương. theo gia đình vào Nam, sống ở Ban Mê Thuột, sau đó chuyển về Sài Gòn. Sang Mỹ và định cư tại Virginia từ 1985 đến nay. Đã xuất bản: Ngày Vội (Tập thơ, 2018), Có Lúc Tôi Trở Về Phố Cũ (Tập thơ, 2024), Mưa Trên Hoa (Tập truyện, 2024). 

THƠ LÊ MỸ HOÀN

EM VẪN HẸN ANH VỀ

Em vẫn hẹn anh về
Dù trăm năm đã trễ
Dù nắng hạ đổi mùa
Xuân không còn son trẻ

Dù biển khơi sóng rẽ
Tóc mai xẻ đôi màu
Thời gian vừa ru khẽ
Ngoảnh lại vẫn còn đau

Nếp da nhăn úa nhàu
Nguyệt cầm xưa ứa lệ
Bên kia bờ sông cũ
Dòng nước đã hằn sâu

Bông hoa vườn hoang phế
Hoàng lan khung trời xưa
Khuôn viên thầm lặng lẽ
Thế kỷ lặng lờ đưa

Nỗi buồn dâng đâu tá
Chim di lạc loài bay
Nhớ em sầu năm tháng
Sương tuyết bạc trời mây

Em vẫn hẹn anh về
Cánh chim trời sương mỏi
Dừng chân cội đào xưa
Bên thềm hoa nguyệt khuyết.

TÔI NỢ MÙA XUÂN
 
Tôi nợ hồng hoa một nụ hôn
Nợ trưa nắng gắt tựa dỗi hờn
Nợ ngày xưa ấy bên khung cửa
Nao nao một khoảng đời nhẹ êm
 
Tôi nợ tuổi xuân hồng đôi má
Nợ tim tôi một thuở có em
Nhịp đập như cùng chung âm điệu
Nợ mênh mang những nỗi êm đềm 
 
Cung thương buổi nắng ngập sau hè
Tôi nợ em về một bước đi
Nợ màu áo lụa tung tăng ấy
Nợ trong tôi một mối tình si 
 
Tôi nợ hồng hoa một nụ hôn
Nợ mùa Xuân đó mắt mi thương
Nợ niềm vui đó em mang lại
Môi em còn một nét xuân hoài.

500. Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 75 : LÊ MỘNG HOÀNG Câu chuyện của cô giáo Việt Nam tỵ nạn.

 

Trong ảnh: Bà Lê Mộng Hoàng

Tên thật Lê Tống Mộng Hoa. Bút hiệu Lê Mộng Hoàng. Trước năm 1975, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa Đà Lạt. và dạy học tại các trường Trung học công lập Trần Quý Cáp (Quảng Nam) và Trung Thu (Sài Gòn). Sang Mỹ năm 1975. Làm nhiều công việc khác nhau, vượt qua những trở ngại và cuối cùng tốt nghiệp đại học vào năm 1987. Hiện sống tại tiểu bang Virginia. Đã xuất bản: "Chìa Khóa Mở Cửa Hạnh Phúc". 


CÂU CHUYỆN CỦA CÔ GIÁO VIỆT NAM TỴ NAN

Tôi sinh ra tại một thành phố nhỏ mang tên Hội An, thuộc miền Trung nước Việt Nam. Ba Mẹ tôi đều là nhà giáo, chị cả của tôi, các em tôi và tôi cũng đều dạy học. Tôi là giáo sư trường Trung Học trước năm 1975, sau khi tốt nghiệp Cử nhân tại Đại Học Đà Lạt năm 1966, tôi trở về quê cũ và dạy học cùng trường với ba tôi. Từ năm 1966 đến 1969, nhiều học sinh lớp 11 và lớp 12 của tôi đã chết hoặc mất tích. Có vài em rời ghế nhà trường để gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hoà, sau đó thì tôi nghe tin các em đã tử thương! Đối với tôi đây là giai đoạn kinh khủng và đau buồn lắm! Mỗi đêm khi nghe tiếng súng hoặc tiếng đại pháo “ca-nông" gia đình tôi phải thức giấc và chạy vội xuống hầm trú ẩn. 

Tôi lấy chồng năm 1969 và trở thành giáo sư trường Trung Học dạy con em của cảnh sát viên vì chồng tôi đang dạy tại trường Cao Đẳng Quốc Phòng ở Sài Gòn. Năm 1970, tôi sinh con gái đầu lòng nhưng chỉ 4 tháng sau thì ba cháu qua đời sau một tai nạn xe trên đường đi công tác từ Sài Gòn đến Biên Hoà, một lộ trình ngắn chỉ có hai mươi dặm (20 miles). Tôi bị khủng hoảng tâm thần vì sự ra đi đột ngột của chồng. Tôi mất hết niềm hy vọng, nghị lực và ngay cả ước muốn sống còn! 

Tôi mất ngủ suốt nhiều tháng, rồi nhiều năm. Tại trường Trung Học nơi tôi đang dạy, mỗi khi tôi giảng bài có liên quan đến hạnh phúc gia đình hoặc tình yêu, tôi không cầm được nước mắt. Tôi khóc còn học trò của tôi thì cười. 

Để giữ cho khỏi mất quân bình, tôi cố gắng làm nhiều việc để luôn bận rộn. Ban ngày tôi dạy ở trường công lập, buổi chiều tôi dạy ở trường tư thục và ban đêm tôi đi học Ban cao học về Văn Chương Việt Nam. Tôi làm việc 16 tiếng mỗi ngày để kiếm tiền nuôi con và em trai và các em gái của tôi đang sống chung nhà với tôi và theo học tại Đại Học Sài Gòn.