Thứ Năm, 20 tháng 11, 2025
Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025
163 . NGUYỄN MINH NỮU ; Số 19 KỲ ĐỒNG. Truyện ký.
Thứ Ba, 18 tháng 11, 2025
642 . VŨ HOÀNG CHƯƠNG : Di SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM : ĐỜI VẮNG EM RỒI SAY VỚI AI. Thơ
Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu,
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu.
Thôi rồi, tay nắm tay lần cuối,
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.
Trai lỡ phong vân gái lỡ tình,
Này đêm tri ngộ xót điêu linh,
Niềm quê sực thức lòng quan ải,
Giây lát dừng chân cuộc viễn trình.
Tóc xoã tơ vàng nệm gối nhung,
Đây chiều hương ngát lả hoa dung,
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo,
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay,
Buồn mưa, trăng lạnh; nắng, hoa gầy.
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say.
Gặp gỡ chừng như truyện Liểu Trai.
Ra đi chẳng hứa một ngày mai.
Em ơi! lửa tắt, bình khô rượu,
Đời vắng em rồi, say với ai?
Phương Âu mờ mịt lối quê Nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang.
Ghé bến nào đây, người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng?
Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?
Mà đây lòng trắng một mùa đông.
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi,
Thoảng gió... trà mi động mấy bông.
Bài thơ ban đầu có tên là Đời vắng em rồi, nhưng sau được đổi thành Đời vắng em rồi say với ai. Tên này sau cũng được dùng đặt cho một một tập thơ khác.
642 . SONG THAO : Đọc "NGÔ ĐÌNH DIỆM và TÔI" của BÙI CÔNG VĂN
ĐỌC “NGÔ ĐÌNH
DIỆM VÀ TÔI” CỦA BÙI CÔNG VĂN
*SONG THAO
Năm 1953, một biến cố lớn xảy ra: ông Diệm được mời qua Pháp. Đây là một lời
mời quan trọng khiến ông phải suy nghĩ lung. Ông rời nhà ông Văn, về lại chủng
viện Maryknoll để tĩnh tâm suy nghĩ. Khi đó tình hình tại Đông Dương ngày càng
tồi tệ sau những thất bại liên tiếp của quân đội Pháp trên chiến trường. Có lẽ
ông Diệm thấy tình thế đã chín mùi nên quyết định đi.
Đầu tháng 5 năm 1953, ông Diệm rời New York qua Paris. Hành lý chỉ có một chiếc
va-ly và một chiếc cặp. Toàn thể đồ đạc còn lại, ông đã gửi nơi nhà ông Văn gồm
sách vở, giấy tờ, quần áo và vật dụng cá nhân. Ông dặn ông Văn sau này gửi qua
Paris cho ông Tôn Thất Cẩn nhận và giữ cho ông. Chiếc cà vạt cũ của ông bữa ra
phi trường không thắt được nên ông Văn tặng ông một chiếc cà vạt mới.
Ông Diệm ra đi, nhà ông Văn bỗng vắng vẻ hẳn.
Không còn ông trong căn phòng ngủ, không còn khách lai vãng, không có những cuộc
trò chuyện xuyên đêm. Chiếc ghế dài ông nằm suốt nhiều tháng chừ vẫn còn in dấu
người, chỗ giữa lún xuống, cong hẳn đi. Đám con ông Văn ngày nào cũng hỏi ông nội
Maryknoll đâu rồi. “Muriel còn quá nhỏ để nhớ hay trò chuyện về ông, nhưng với
Dominic và Mỹ Châu, chúng tôi đành phải nói rằng: “Ông nội Maryknoll sẽ quay lại sau vài tuần
nữa.” Than ôi, câu nói ấy khiến hai
đứa bắt đầu mong ngóng ông, chờ ông trở về với tay cầm trái cây hay một món đồ chơi nào đó, giống như những lần ông quay lại sau vài ngày ở các chủng viện Maryknoll tại Lakewood hay Ossining. Chỉ có
Marie là biết rõ rằng ông nội đã sang Pháp - đi mãi mãi. Rằng có thể ông sẽ trở lại, nhưng
điều đó, thực tế, là không
thể”.
Giáng Sinh năm 1953, ông
Văn viết cho ông Diệm một tấm thiệp với hàng chữ: “Tôi biết rằng quyền
lực tự thân chưa bao giờ là điều mà ông
quan tâm, nhưng đất nước cần ông, cần sự lãnh đạo của ông. Xin hãy tha thứ cho sự tự phụ của tôi. Tôi bây giờ còn nôn nóng hơn cả lúc ông còn ở đây với chúng
tôi, vì giờ ông không còn ở đây để chúng tôi có cảm giác đang có một mục tiêu rõ ràng. Tôi biết ông sẽ gặp vô vàn trở ngại ở
Paris, nhưng xin cho phép tôi mượn một câu nói cũ: ‘Anh hùng tạo thời thế thì
thời thế cũng tạo anh hùng.’ Thưa ông, tôi nói điều này hoàn toàn xuất phát từ đáy lòng, không
hề mang theo bất kỳ động cơ thầm kín nào.”
641 . PHAN TẤN UẨN : Vui Với VĂN CHƯƠNG HẢI NGOẠI
VUI
VỚI VĂN CHƯƠNG HẢI NGOẠI
Tản mạn : Phan Tấn Uẩn
**
Khi qua Mỹ định cư,tôi liên lạc ngay với Trần Hoài Thư (cuối năm 2005). Mãi đến 12 năm sau (2017) khi về hưu, tôi mới có dịp liên lạc với nhà văn Lê Thị Huệ và nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh. Những người nầy đã khuyến khích tôi cầm bút trở lại.
Tuần lể đầu tiên đặt chân lên Florida, ghé siêu thị Tiến Hưng ở Orlando,
trong nhiều tập báo quảng cáo như Trẻ, Gia Đình…, tôi đọc thấy mấy hàng giới
thiệu tập bút ký “ Những người cổ trắng” của Trần Hoài Thư, biết được số điện
thoại, gọi ngay, báo tin đã qua Mỹ. Bạn chúc mừng ,hỏi thăm và sau đó liên lạc
qua email, rồi có kết nối 18 năm liền mạch đến ngày cuối cùng. Ngày bạn mất,
tôi chỉ có vài hàng chia buồn trên Facebook mà không đủ thông tin để viết một
bài tưởng nhớ góp mặt với anh em văn báo. Nhân đây tôi muốn ghi một vài chi tiết
trong mối quan hệ riêng tư như lời tưởng nhớ bạn. Trước bảy lăm tôi chỉ gặp Trần
Hoài Thư một lần ở 666 Phan Thanh Giản,SàiGòn (tòa soạn Ý Thức) trong một dịp
ngẫu nhiên không hẹn trước. Quá bất ngờ không biết nói gì, thấy mặt nhau cũng đủ
vui. Cả hai đang ở trong quân ngũ. Tôi gấp gáp trở về ĐàNẳng, bạn trở về đơn vị…
Trên 100 số báo Thư Quán Bản Thảo, tôi chỉ có bài viết duy nhất, kể “Vài Kỷ Niệm Về Tạp Chí Ý Thức” trên số 88 (tháng 2/2020), mặc dù nhiều lần bạn
nhắc và gợi ý tôi viết về đề tài quân đội. Chuyện nầy phải đợi đến khi bộ quân
phục trong bức ảnh treo tường thôi thúc, tôi mới có hứng thú viết về tám năm
quân ngũ, vì nó liên quan đến gia đình tôi. Xin nói thêm cho rõ. Lúc con trai
tôi được visa du học Mỹ năm 1997, nó đã bị nhiều người Việt đồng hương ở Cali
ngộ nhận là con cán bộ qua Mỹ du học , vì “Cha mầy là sĩ quan học tập cải tạo
thì tiền đâu cho mầy đi du học, nói láo”. Nó qua Mỹ vào thời điểm cọng đồng người
Việt ở Cali sôi sục biểu tình chống Cọng. Những tháng đầu ở Cali trong nhà người
bác họ ,nó bị lôi kéo đi biểu tình liên miên, có lần bị đẫy lên hàng đầu rất
nguy hiểm. Nó phát hoảng, gọi điện thoại cho chúng tôi ở SaiGon giọng đầy lo lắng.
Tôi phải gởi qua Mỹ cho nó bản chụp lại bức ảnh của tôi ,bảo nó mang theo làm
bùa … hộ mệnh. Đó là bức ảnh độc đáo ghi nhận dấu ấn trong đời lính, chụp vào tháng 6 năm 1972 giữa một trưa hè nắng gắt trên bờ cát biển Cửa Đại – Hội An.Trần Hoài Thư gởi tôi đủ bộ 4 tập
Văn Miền Nam, Thơ Tự Do Miền Nam, nhiều số báo Thư Quán Bản Thảo và nhiều tác
phẩm của Di Sản Văn chương Miền Nam (đặc biệt thích nhất cuốn Cỏi Đá Vàng của
Nguyễn Thị Thanh Sâm), cọng lại toàn bộ hơn năm ngàn trang, tôi đã mấy lần gởi
check ($100/lần) về New Jersey, nhưng chưa lần nào thấy bạn đến ngân hàng rút
tiền. Quá nhiều người viết về công lao của Trần Hoài Thư đối với di sản văn
chương Miền Nam, tôi chỉ biết ngậm ngùi…Bạn đi để lại biết bao tình . Nói chẳng
nên lời, thôi lặng thinh… Sau khi về hưu, tôi
rất háo hức muốn biết tình hình sinh hoạt của Văn học hải ngoại. Trước hết,
muốn biết tung tích các nhà văn Miền Nam trước 75, tôi tìm đọc những bài phỏng
vấn hoặc những ghi chép về các nhân vật nầy. Bài phỏng vấn nhà văn Hoàng Hải Thủy
là bài đầu tiên tôi đọc trên internet. Tiếp theo là các phỏng vấn Văn Quang,
Vương Tân…giúp tôi biết được nhiều thông tin hấp dẫn, thỏa trí tò mò .Như một
phóng viên năng động lành nghề, nhà văn Lê Thị Huệ biết cách đặt những câu hỏi
khiến người được phỏng vấn có dịp nói ra hết những gì muốn nói. Tôi liên lạc với
chủ biên của trang gio-o và gởi những truyện ngắn đăng trên Văn, Khởi Hành, Ý
Thức, Thời Tập trước 75 để lưu giữ trên trang mạng văn chương nầy. Sau đó, nhận
được email đề nghị phỏng vấn, tôi từ chối vì tự xét thấy mình không đủ tư cách
nhà văn để trả lời những câu hỏi thuộc về văn học nghệ thuật… Một lần tôi đánh tên mình vào Google Search,
bất ngờ thấy hiện ra tất cả những gì tôi đã viết từ trước bảy lăm ở Miền Nam đến
sau 75 ở Mỹ. Những truyện ngắn và bút ký
lưu giữ trên gio-o được thiên hạ
mang ra đọc trên các YouTube và cũng xuất hiện trên các trang mạng văn chương
khác. Vô tình chúng cũng được hồi sinh như bộ quân phục của tôi. Ngay cả mười
cuốn sách kỹ thuật hướng dẫn sửa chữa các loại máy điện tử dân dụng (radio,
cassette,TV,DVD) tôi viết cho học viên học nghề của Trường Điện Tử ĐaKao của
tôi ở Việt Nam cũng xuất hiện đầy đủ trên các mạng học thuật trong nước như các
trung tâm dạy nghề , Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, Trường Đại Học Tổng Hợp… Bộ Sách đồ sộ 7 tập “ 44 Năm Văn Học Việt
Nam Hải Ngoại 1975-2019” (VHVNHN) do nhóm Khánh Trường – Luân Hoán – Nguyễn Vy
Khanh thực hiện năm 2019 ghi nhận số người cầm bút hải ngoại lên đến con số hơn
ba trăm… Bút ký của tôi xuất hiện trong tập 4 cho thấy công việc của nhóm chủ trương có vẻ như một
cuộc “săn tìm” số người đã từng viết văn đang có mặt ở hải ngoại, còn chất lượng
của văn chương nghệ thuật chỉ là thứ yếu (?).Nguyễn Vy Khanh gởi email yêu cầu
tôi góp bài cho bộ VHVNHN . Tôi gởi nhiều bài,cuối cùng anh chọn bút ký Bức Ảnh
Hồi Sinh. Bút ký viết hối hả, nhớ đâu viết đó như sợ những hồi ức biến mất
không tìm lại được miễn sao chúng xuất hiện trên giấy trắng mực đen với mục
đích rõ ràng chỉ dùng cho con, cháu đọc
để bọn nhỏ biết về quá khứ của cha mẹ chúng.Tham khảo qua nhiều ý kiến và nhận
định của nhiều người trong văn giới về bộ “44 NĂM VHVNHN 1975-2019", tôi
xin tạm đúc kết như sau : Bộ “44 NĂM VHVNHN 1975-2019"có thể không có nhiều
giá trị nghệ thuật sâu sắc theo hướng phê bình hay sáng tạo, nhưng chúng ta
không thể bỏ qua nó. Một số giá trị có thể là:. Ghi lại lịch sử VHHN: Bộ sách
như một kho tư liệu ghi nhận sự tồn tại và đóng góp của các nhà văn, nhà thơ
người Việt sống ở nước ngoài. Nó giúp các thế hệ sau hiểu hơn về một giai đoạn
văn học đã bị ảnh hưởng bởi biến cố lịch sử 30 tháng tư năm 1975.. Bảo tồn văn
hóa và ngôn ngữ tiếng Việt : Việc các tác giả hải ngoại tiếp tục sáng tác bằng
tiếng Việt là một cách bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa trong cộng đồng người Việt
lưu vong. Bộ sách là minh chứng cho việc tiếng Việt vẫn được duy trì trong môi
trường mới.. Tạo cơ hội kết nối: Dù không đi sâu vào phân tích hay phê bình, việc
tập hợp hơn 300 tác giả lại có thể giúp họ kết nối với nhau, chia sẻ quan điểm
và tìm thấy sự đồng cảm qua tác phẩm..
Phát hiện những tài năng tiềm ẩn: Dù không có sự phân chia trường phái hay phê
bình tác phẩm tác giả, độc giả vẫn có thể phát hiện ra những tác giả tiềm năng,
từ đó có thể dẫn đến những nghiên cứu, phân tích chuyên sâu hơn về tác phẩm của
họ trong tương lai.Bộ sách, theo cách đó, vẫn có vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và bảo tồn di sản VHHN. Nhắc đến VHHN, tôi chỉ biết 44 NĂM VHVNHN, vì
giai đoạn từ 1975 đến 2017, tôi không đọc và cũng không biết gì về hoạt động của
các nhà văn hải ngoại..
Cũng nói về VHHN từ năm 2017 đến nay , dù
không tích cực hoạt động, nhưng tôi rất quan tâm đến sinh hoạt của nó , đặc biệt
là các nhà văn hiện vẫn còn sáng tác (2024).Nếu phải chọn một nhân vật có thể
là tấm gương cho đàn em con cháu hải ngoại noi theo trên con đường duy trì dòng
chảy của VHHN, tôi không ngần ngại gọi tên Trịnh Y Thư. Tôi thích tác giả nầy.
Đây là nhà văn có thể là đầu tàu vì tính đa tài đa năng. Trước hết, tài năng dịch
các tác phẩm khó dịch như Trịnh Y Thư từ lâu phải được nhắc đến. Tôi đã in và đọc
hai tác phẩm Trịnh Y Thư dịch từ tiếng Anh của Milan Kundera (Sách Cười & Sự
lãng quên :The book of Laughter And Forgetting và Đời Nhẹ Khôn Kham : The
Unbearable Lightness of Being) mới biết độ khó chuyển ngữ của hai tác phẩm nầy.
Trịnh Y Thư là nhà văn vẫn còn sáng tác hiện thời, đã trải qua mấy chục năm
kinh nghiệm viết văn tiếng Việt, có lợi thế lớn giữ cho dòng VCHN không bị đứt
quãng…Cùng với niềm vui viết văn, tôi phải kể đến phòng in sách Kim Cương Ấn
Quán mà tôi đã âm thầm gầy dựng từng công đoạn suốt trong năm 2012 để cuối cùng
chọn ngày mất của Phạm Duy để in cuốn sách mở đầu “ Phạm Duy, Ngày Ra Đi” (sưu
tầm những bài viết về Phạm Duy) vào ngày 27/1/2013. Cũng áp dụng kỹ thuật POD (
Print On Demand : In theo yêu cầu) nhưng cách làm của tôi khác hẳn Thư Ấn
Quán…Cơ sở nầy chủ yếu in sách cho tủ sách gia đình và các bộ kinh Phật, in một số sách xưa do
vài facebooker yêu cầu, đặc biệt in một Tập San Quốc Học kết nối các bạn học cũ
đang sống tản mát khắp thế giới. Cơ sở in chiếm dụng thời gian rảnh rỗi của tôi
nhiều lần hơn so với chuyện viết văn vì
niềm vui quá lớn do nó mang lại…Học tập cải tạo trở về, không có thì giờ khám
phá bản thân để sống cho ra hồn, nói chi đến chuyện chơi văn giỡn chữ. Tôi
không phải là nhà văn, nhưng viết văn là một sở thích từ nhỏ. Qua Mỹ định cư,
viết văn giống như một quá trình hồi phục tinh thần, chẳng khác gì hành trình
khám phá lại bản thân.Viết để có dịp gắn kết cộng đồng, nơi ta có thể tìm thấy
khuyến khích, ủng hộ và cộng tác.
Gainesville
Dec 2024
Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025
640. THÂN TRỌNG SƠN - UYỂN NGỮ
Tôi
báo cho bạn: HVU đã ra đi. Ông biết chưa? - Chưa, mà đi đâu?
Tôi ngỡ ngàng. Bạn hiểu nghĩa đen, còn tôi muốn nói ý
khác. Tôi thêm: Đi xa, về bên kia thế giới. Với người khác, tôi nói: U. mất rồi.
Họ hỏi lại: Mất gì?
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm
khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT.
CHẾT là một từ có sắc thái tiêu cực, gợi lên cảm giác đau
buồn, mất mát cho người nghe. Từ này cần được thay thế bằng từ khác có ý nghĩa
tương tự.
Có thể dùng: qua đời, khuất núi, trút hơi thở cuối cùng,
lên đường theo tổ tiên, về nơi tiên cảnh, nhắm mắt xuôi tay, an giấc ngàn thu,
quy tiên, rời cõi tạm, thác, ra đi mãi mãi, về nơi chín suối, trở về với cát bụi,
đi gặp ông bà ông vải, trở thành người thiên cổ, về cõi thiên thai, ăn xôi nghe
kèn. Trong ngữ cảnh nhất định, còn có thể nói: không qua khỏi ( bệnh
tình quá nặng, chúng tôi đã làm hết sức nhưng ông ấy không qua khỏi. Anh ấy đã hy
sinh, đã không bao giờ trở về nữa.
639 PHAN TẤN HẢI - PALESTINE , Những dòng thơ không bao giờ chết.
Phan Tấn Hải
Palestine: Những dòng thơ không bao giờ chết
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót.
Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm, rút dao, đâm kiếm để hoàn tất những cuộc thập tự chinh, hay đi chiếm đất từ Á sang Âu, từ Nam ra Bắc. Các thương binh thời đó không được chữa trị, vì cũng chẳng có bác sĩ quân y nào, phải nằm chờ chết nơi ven rừng, góc biển. Bây giờ thì chiến tranh dữ dội hơn, phần lớn là chết liền, chết chớp nhoáng, và kể cả chết mà chẳng hiểu vì sao.
Hãy đọc những dòng này của Mosab Abu Toha, một nhà thơ Palestine 33 tuổi, khi anh kể về một cái chết ở Gaza:
Chị ngủ trên giường,
không bao giờ thức dậy nữa.
Giường của chị đã trở thành nấm mồ của chị,
một nấm mồ bên dưới trần phòng,
trần nhà, một đài tưởng niệm.
Không tên, không năm sinh,
không năm chết, không bia mộ.
Chỉ có máu và một khung ảnh bị vỡ
kế bên chị.
Nhà thơ Mosab Abu Toha là một người Palestine sinh trưởng trong rào kẽm gai và các nhà lều tỵ nạn ở Gaza. Năm 2014, nhà thơ Mosab Abu Toha đã được truyền cảm hứng từ một cuốn sách mà anh cứu được từ đống đổ nát để thành lập Thư viện Công cộng Edward Said tại Thành phố Beit Lahia, thư viện tiếng Anh đầu tiên của Gaza. Học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky đã ca ngợi thư viện là "một tia sáng và hy vọng hiếm hoi cho những người trẻ tuổi ở Gaza". Abu Toha ước mơ qua thư viện và thi ca sẽ kể lại những ước mơ hạnh phúc với những người dân Gaza khác trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm dưới sự chiếm đóng của Israel, cũng như những trở ngại mà anh phải đối mặt trong việc tiếp cận các nguồn lực, từ sách vở đến nhà cửa. Abu Toha là nhà thơ thế hệ trẻ. Trước anh, đã có những nhà thơ Palestine khác đã bị quân đội Israel giết.

Nhà thơ Mosab Abu Toha cứu được một cuốn sách từ gạch vụn Gaza năm 2014, gợi ý cho anh làm thư viện. (Hình từ chương trình Harvard University Scholars at Risk Program)
638 . Câu chuyện nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn bị giả mạo trên mạng xã hội.
Hiện nay, trên mạng xã hội có nhiều tin giả về nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn và nhiều kênh YouTube giả mạo mạo kênh YouTube của nhà văn. Video này, do VietFaceTV thực hiện, nhằm làm rõ các vấn đề trên.
Nguồn: officialVietFaceTV
Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025
GIỚI THIỆU SÁCH . TÁC PHẨM: NƯỚC MỸ: CHUYỆN ĐỜI CHUYỆN NGƯỜI của VÕ PHÚ.
Nước
Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện
Người
Nguyễn Quốc Huy
Nước
Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người là
tập truyện thứ hai của Võ Phú viết về cuộc sống tại Mỹ, nối tiếp quyển Nước
Mỹ: Những Mảnh Ghép Rời. Tác phẩm tiếp tục mở ra những câu chuyện đời
thường, giản dị nhưng đầy chiều sâu, về nước Mỹ. Mỗi câu chuyện
không chỉ phản ánh cuộc sống hàng ngày mà còn ẩn chứa những suy ngẫm sâu sắc về
xã hội và con người.
Tập
truyện không chỉ dành cho những ai đang sống tại Mỹ mà còn cho tất cả những ai
yêu thích khám phá những câu chuyện đời thường đầy ý nghĩa. Nước Mỹ:
Chuyện Ðời, Chuyện Người hứa hẹn sẽ khiến người đọc say mê, bởi
từng trang viết giản dị mà chứa đựng những cảm xúc và triết lý sâu sắc về cuộc
sống.
Với Nước
Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người, Võ Phú đã khắc họa cuộc sống nơi đất Mỹ
một cách chân thực và sắc nét. Những câu chuyện không chỉ phản ánh đời sống của
người Việt tại Mỹ mà còn dẫn dắt người đọc vào hành trình khám phá văn hóa và
sự hội nhập trong một xã hội đa dạng và đang thay đổi từng ngày. Các câu chuyện
của Phú không chỉ đơn giản là những mẩu chuyện về cuộc sống, mà còn là những
câu hỏi lớn về bản sắc, về sự khác biệt văn hóa và quá trình hòa nhập của những
người mới đến.
Điều
đặc biệt trong Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người là sự
gần gũi trong cách viết của Võ Phú. Từ những chi tiết đời thường như đi chợ,
gặp gỡ bạn bè, trò chuyện với hàng xóm, tác giả tạo ra những cơ hội để bộc lộ
sự quan sát tinh tế về những thăng trầm trong xã hội hiện đại. Mỗi câu chuyện
là một mảnh ghép trong bức tranh tổng thể về nước Mỹ, giúp người đọc nhìn thấy
những góc khuất ít ai để ý, nhưng lại là phần không thể thiếu trong việc hiểu
rõ hơn về đất nước và con người nơi đây.
Bằng
giọng văn nhẹ nhàng nhưng đầy tính nhân văn, Nước Mỹ: Chuyện Ðời,
Chuyện Người không chỉ là một tập truyện ngắn mà còn là một cuốn
nhật ký sống động, ghi lại những suy ngẫm, cảm xúc và trải nghiệm của tác giả.
Đọc cuốn sách này, người đọc sẽ nhận ra những mảnh ghép trong chính cuộc đời
mình, dù là ở Mỹ hay bất cứ đâu. Đây là một tác phẩm không chỉ dành cho người
Việt xa xứ mà còn cho tất cả những ai yêu thích sự giản dị nhưng đầy chiều sâu
trong cách nhìn nhận cuộc sống.
Với Nước
Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người, Võ Phú không chỉ viết về những câu chuyện
đời sống mà còn viết về chính chúng ta, những người đang tìm cách hòa nhập,
hiểu và yêu thương thế giới xung quanh.
637 . DOÃN QUỐC SỸ- DI SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM - CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG
Peter S. Beagle - Doãn Quốc Sỹ dịch
Con Kỳ Lân Cuối Cùng
HIỆN ĐẠI THƯ XÃ xuất bản 1973
Nguyên tác: THE LAST UNICORN của Peter S. Beagle do Ballantine Book, Inc., New York xuất bản lần Thứ Tư, 1972.
Copyright © 1968 by Peter S. Beagle
Bản dịch Việt văn của Doãn Quốc Sỹ, do Hiện Đại Thư Xã xuất
bản, với sự chấp thuận của tác giả Peter S. Beagle.
HIỆN ĐẠI THƯ XÃ
28, Phùng Khắc Khoan SAIGON - Đt: 93771
TỰA CỦA DỊCH GIẢ
Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE
LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong
những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn
những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu,
nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những
tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi
dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh
thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần
tri kỷ.
Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được
thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất
nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi
tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt
Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ
giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất
cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát
nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối
thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của
văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ.
Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST UNICORN ra
sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc
giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ
LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và
cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ
rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin
được tuần tự nêu như sau đây:
- Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền
thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay
đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân
cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay,
lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ
lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và
Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ
lân.
Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra
kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má
Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử
dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định
Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và
của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ
ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng
mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch
của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo
thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên
truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho
Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ
làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút
xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới
vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập
tắt ngấm.
Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu
mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự
cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không
nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới
sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó.
Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri
tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về
cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất
tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có
chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn
vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của
Peter S. Beagle chính là ở điểm này.
Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao
của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có
chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống
biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của
ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ.
Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu
lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần
cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng
tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất
úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế
giới này.
Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng
ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác
giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta.
Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện
trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong
suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc
thường nhật.
Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay
hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có
thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền.
Thiện - Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng,
gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà
ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối,
được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ
biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên
mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được.
Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây - của tác
giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng
một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách
đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình
ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có
cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu.
Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác
phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ
ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn?
DOÃN QUỐC SỸ