Thứ Năm, 20 tháng 11, 2025

BBC Tiếng Việt phỏng vấn nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn về việc ông bị giả mạo trên mạng xã hội

 BBC Tiếng Việt phỏng vấn nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn 
về việc ông bị giả mạo trên mạng xã hội
Nguồn: BBC Tiếng Việt, 20.11.2025

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025

163 . NGUYỄN MINH NỮU ; Số 19 KỲ ĐỒNG. Truyện ký.

 



Năm 1972, Nguyễn Quyết Thắng rủ tôi tới 19 Kỳ Đồng, quận 3, nằm đối diện hới xéo về phía trái nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Lúc bấy giờ nơi này đang được sử dụng làm Văn Phòng Liên Lạc Sinh Viên Quốc Nội và Hải Ngoại.  Đây là một tòa biệt thự cổ của Pháp, bước vào là một khoảng sân khá rộng, rồi bước phòng khách có thể sinh hoạt chung năm bẩy chục người, trong nữa là ba phòng dùng làm văn phòng, phòng họp và phòng văn thư.  Chỗ này là nơi gặp gỡ và sinh hoạt cho sinh viên đang đi du học nước ngoài khi về nước có chỗ tìm đến nhau, làm quen, kết bạn và tham dự các sinh hoạt cùng sinh viên trong nước. Điều hành chung là anh Đỗ Ngọc Yến. Anh Yến là Huynh trưởng của phong trào Du Ca nên đây là nơi các Huynh Trưởng Nhạc Sĩ của Du Ca thướng ghé chơi như các anh Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Đức Quang, Trần Văn Bùi,và các trưởng trẻ của Du Ca như Đặng Mục Tử, Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Hữu Nghĩa, Bùi Công Bằng...
Trong số các sinh viên làm việc thường xuyên tại văn phòng,  tôi quen với Lương Văn Tự, Nguyễn Ngọc Linh , Đinh Việt Hùng, Nguyễn Văn Thanh. Ở  địa điểm này, mỗi cuối tuần có những buổi sinh hoạt trình diễn âm nhạc truyền thống, và một đơn vị Du Ca hoạt động thường xuyên là Ca Đoàn Trung Ương của Phong trào Du Ca.
Hôm đó, Nguyễn Quyết Thắng đưa tôi tới để xem Thắng trình diễn một số ca khúc trong chương trình cuối tuần này. Trước phần trình diễn của Thắng là một màn độc tấu đàn tranh. Người nữ thướt tha trong áo dài gấm vàng, đội khăn hoàng hậu.  Cô ta ngồi  xuống, cây đàn để trên đùi và ngón tay thoăn thoắt lướt trên 16 sợi giây đàn, tỏa mênh mông suốt khán phòng một làn hương dân ca dìu dặt. Tôi nghe và thấy lòng dào dạt thương yêu. Đôi mắt cô ta tròn xoe, lúc nhìn xuống đàn, lúc ngước lên nhìn bao quát, tôi nhìn được một cái gì đó mơ màng như mắt nai , và dịu dàng như người em gái nhỏ. Hết phần trình diễn này là tới phần Thắng hát. Tôi ngơ ngác nhìn theo cô bước vào hậu trường. Không cần ai giới thiệu tôi bước theo cô và làm quen.
- Lúc nãy tôi vào trễ nên không nghe được người ta giới thiệu cô tên gì. Vậy cô tên gì vậy?
Cô ta quay lại nhìn tôi, vẫn cặp mắt mơ màng đó nhìn từ trên xuống dưới rồi trả lời nghiêm chỉnh:
-Tuần sau , anh tới sớm hơn sẽ nghe được người ta giới thiệu tên người trình diễn mà.
-Ồ… Nguyễn Văn Thanh, người điều khiển chương trình, là bạn tôi, tôi có thể hỏi anh ta .
-Thế sao anh không hỏi anh ta mà hỏi tôi?
- Trời ạ, tôi tưởng hỏi cô thì nhanh hơn chứ.
- Anh lầm rồi đó.
Nói xong cô mỉm cười có vẻ hài lòng và quay mình bước vào phòng.
Tôi đành thở dài quay lại hội trường ngồi nghe Thắng hát và chờ cuối chương trình sẽ hỏi lại.  Nguyễn Văn Thanh mà sau này thành một đạo diễn kịch nghệ với tên Phương Cửu  cho biết cô ta tên Ngọc Trai, sinh viên khoa học, thành viên ca đoàn Trung Ương. Khi chương trình chấm dứt, tôi không về ngay mà chờ cô ta ra là bước tới hỏi chuyện:
-Ngọc Trai về một mình mà tay cầm đàn có vướng không? Hay tôi đưa Ngọc Trai  về nhe?
Cô ta khựng lại, nhìn tôi, bây giờ thì cô ta đeo cặp kính trắng to. Cặp mắt không còn mơ màng nữa, mà sắc như dao lướt qua tôi. Nhưng cô lại cười tươi tắn:
-Được chứ. Anh đến đây bằng gì?
- Bạn tôi chở.
- Vậy anh định đưa tôi về bằng gì?
- Ơ.., tôi… tôi…
May quá, Thắng chạy tới cứu bồ, Thắng nói Tôi chở Nữu cầm đàn cho Ngọc Trai và chạy theo Ngọc Trai về nhà như vậy an toàn hơn.
Ngọc Trai trả lời:
-Tôi nghĩ rằng tôi đi một mình  an toàn hơn.
Cô ta ngừng một chút rồi nói:
“Nhưng nếu hai anh chạy theo bảo vệ thì cũng vui mà... “
Từ lúc quen Ngọc Trai, tôi tới chơi với văn Phòng Liên Lạc nhiều hơn, từ đó kết thân với Nguyễn Ngọc Linh và Đinh Việt Hùng. Cả hai đều là Du Ca, và là nhân viên thường trực tại văn phòng. Đinh Việt Hùng hát hay, vừa đoạt giải Khôi Nguyên Tiếng Hát Sinh Viên, còn Nguyễn Ngọc Linh thì phụ trách về Kỹ Thuật, là toán trưởng một toán Du Ca. 
Đầu tiên là hẹn Ngọc Trai ở văn phòng liên lạc. Thuở ấy, phương tiện liên lạc với nhau chỉ là viết thư, không có phone, không có fax, cho nên gặp lần này là hẹn lần sau, hoặc tới sớm nhìn lên bảng nhắn tin coi có mẩu nhắn tin nào gắn lên đó .
Văn phòng 19 Kỳ Đồng là nơi gặp gỡ của sinh viên các trường Đại Học trong và ngoài nước, tôi là một người đặc biệt, cũng là sinh viên, nhưng là sinh viên sĩ quan Thủ Đức. Mỗi chiều thứ sáu, đi phép về là đi thẳng tới văn phòng, vẫn mặc trên người quân phục đi phép. Thường thì sau giờ sinh hoạt chung, khoảng hơn 8 giờ tối , Ngọc Trai và tôi đi về trên chiếc xe Yamaha nữ mầu xanh nước biển của  Ngọc Trai. Một lần, vừa tới nơi, tôi thấy Ngọc Trai vẫn còn ngồi trên xe ở sân trước. Cô ngoắc tôi chỉ ra ngoài. Đi theo ra ngoài, ngồi phía sau cho Ngọc Trai chở, tôi vẫn nghĩ là sẽ chạy lăng quăng đâu đó như mọi lần, rồi ghé quán cà phê Phấn Thông Vàng trên đường Nguyễn Thông nghe nhạc tình hoặc ghé hội quán Cây Tre ở Đinh Tiên Hoàng nghe nhạc Thân Phận, nhưng khi chạy ra tới Ngã Sáu, Ngọc Trai quay lại hỏi tôi nhà ở đâu.
- Nhà... nhà ai?
-Nhà bạn chứ ai.
- Để làm gì?
- Về thay đồ dân sự đi.
Tôi chỉ đường cho cô chạy về cầu chữ Y, vào nhà thay vội bộ quần áo dân sự rồi lại leo lên xe cho cô chở đi, chẳng hỏi là đi đâu. Ngọc Trai chạy về phía quận 6, rẽ vào khu cư xá Phú Lâm B, và ghé vào một căn nhà lớn như một cái biệt thự. Bên trong có khoảng mười mấy thanh niên nam nữ ngồi quanh nhau, mọi người chào hỏi vui vẻ và bày biện ra bánh kẹo trái cây  nói rằng hôm nay là sinh nhật ai đó . Lát sau có một người tới nữa, lớn tuổi hơn chúng tôi , người này mọi người gọi là anh Huỳnh.
Anh Huỳnh thấp người, khuôn mặt vuông vức nhưng xanh lét như người bệnh sốt rét. Ngọc Trai nói với tôi anh Huỳnh trước học ở Khoa Học, ra trường lâu rồi, tới chơi đây như một người anh. Khi vòng tròn ăn uống tạm vơi, anh Huỳnh có nói gì đó về trách nhiệm thanh niên, về dân tộc, sau đó hướng dẫn mọi người cùng vỗ tay hát chung một số bài ca sinh hoạt thanh niên. Trong đó có bài tôi biết, có bài tôi không biết. Anh Huỳnh liếc qua tôi và lục trong túi xách mang theo một xấp giấy đưa cho tôi, giọng thân mật, nhắc tôi nhìn vào giấy này và hát theo mọi người.
Tôi gật đầu, lật phớt phớt vài trang xấp giấy quay ronéo đó, đọc và giật mình khi thấy thoáng qua là những lời ca mang nặng tính đấu tranh và hận thù . Tôi chợt hiểu lý do Ngọc Trai muốn tôi thay quần áo dân sự trước khi đến đây.  Tôi ngồi im  suốt buổi, cho tới khuya mới về.
Ngọc Trai chở tôi về nhà cô ta. Nhà  nằm trong đường hẻm đối diện trường Quốc Gia Hành Chánh ở đường Trần Quốc Toản. Căn nhà rộng bề ngang và khá sâu, bên ngoài là phòng khách, rồi tới một phòng lớn có cầu thang lên lầu, phía sau là xưởng ép đế giầy bằng mủ cao su. Tôi gặp mẹ của Ngọc Trai. Cụ bảo khuya quá đi đường không tiện, cháu cứ ngủ lại trong xưởng với mấy anh công nhân cũng được.  Tối đó,  tôi lấy cái ghế bố ngủ lại ở cái phòng có cầu thang lên lầu. Gia đình Ngọc Trai ở trên lầu, cửa khóa lại.
Tôi học ở Thủ Đức xong, ra trường về đơn vị ở tiểu khu Định Tường. Đôi mắt cận thị nặng không phù hợp cho những đêm di chuyển giữa bùn lầy sình nhão, nên tôi xin đi khám mắt và sau đó được giải ngũ vào cuối năm 1974. Những ngày còn quanh quẩn ở Sài Gòn, Ngọc Trai thường đưa tôi đi gặp nhiều nhóm bạn khác lạ.  Dù dị ứng với chính trị, nhưng tôi cũng mường tượng ra một cái gì không bình thường ở những nhóm sinh hoạt này.
Tôi thường từ chối đến với các sinh hoạt thanh niên theo từng nhóm, viện lý do không phù hợp để đưa Ngọc Trai rong chơi trong thành phố. Trên chiếc xe hai bánh mầu xanh nước biển, tôi chạy dọc bến sông, từ bến Bạch Đằng, qua bến Hàm Tử, qua bến Lê Quang Liêm vào tuốt  gần Bình Chánh, rồi ngược ra , chạy theo xa lộ Đại Hàn, chạy ven phía nam thành phố , qua đến Bình Dương, vòng xuống Gò Vấp để về lại Hàng Xanh… Có khi chúng tôi dừng lại ven đường, ghé vào một quán cóc gọi ly cà phê đen đá, thong thả nhìn đời sống kham khổ nhưng yên bình của người dân, có khi  trời còn nắng, chúng tôi chạy vào rừng cao su ven xa lộ, ngồi nghỉ ngơi dưới tàn lá rậm , rì rào con gió mùa hè và nghe Ngọc Trai khao khát một đời sống bình yên khi đất nước hòa bình…
Ngọc Trai nằm thoải mái soải chân trên nền lá vàng, hát mê say : nếu là chim  tôi sẽ làm loài bồ câu trắng, nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương…(Tự Nguyện- nhạc Trương Quốc Khánh)
Còn tôi, tôi hát  cho Ngọc Trai nghe Bài Hương Ca Vô Tận của Trầm Tử Thiêng: Hát nữa đi Hương hát điệu nhạc buồn, điệu nhạc quê hương .Hát nữa đi Hương hát lại bài ca tiễn anh lên đường .Ngày đao binh chưa biết còn bao lâu, Cuộc phân ly may lắm thì qua mau ,Hát nữa đi Hương hát để đợi chờ… 
Những lúc không đi đâu, tôi cùng Ngọc Trai thường đứng ở lầu một biệt thự 19 Kỳ Đồng. Khung của sổ lớn nhìn ra khoảng sân rộng bên dưới, ngoài đường tiếng xe chạy vọng vào xa xa, chiều về chầm chậm , tiếng chuông nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế thánh thót báo lễ chiều, và thả hồn mình vào những khao khát hòa bình dù chưa biết cuộc tương tàn sẽ chấm dứt bằng cách nào. Hiệp định Paris đã ký kết cả ba năm rồi mà có ngày nào trên đất nước không có tiếng súng đâu.
Buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đứng trên đường Nguyễn Biểu, nhìn dòng người táo tác, mặt mày thất sắc ,ôm đồ đạc chạy từ quận 8 qua, rồi lát sau,  một toán bộ đội súng cầm tay đi tới. Cái cảm giác bàng hoàng, buồn vui lẫn lộn. Vậy là hòa bình rồi hả? Vậy là chấm dứt chiến tranh rồi hả?  Cái chết không còn là sự đe doạ nữa  nhưng rồi cuộc sống sẽ như thế nào đây…
Bất ngờ nhìn thấy chiếc xe Yamaha chạy vào hẻm, tôi vội về nhà, và sửng sốt nhìn Ngọc Trai.
Là Ngọc Trai đó sao? Vẫn trên chiếc xe gắn máy quen thuộc, nhưng hôm nay Ngọc Trai mặc đồ xanh của bộ đội miền bắc, sau lưng đeo một khẩu súng dài, chiếc mũ tai bèo cột chặt đưới cằm thật xa lạ trong mắt tôi.
Cô ta ngoắc tay, kêu tôi ngồi lên xe. Đi đâu? – Đi, làm việc. – Làm việc gì? Tôi biết gì mà làm? – Lên xe đi,  lát nữa rồi biết.
Ngọc Trai chạy về phía Chợ Lớn, chạy qua Nguyễn Tri Phương, bùng binh An Dương Vương, rồi ghé vào Đại Học Xá Minh Mạng. Ngoài cổng Đại Học Xá có người gác cửa, họ quen thuộc với Ngọc Trai nên mở cổng cho cô chạy vào. Bên trong, không có một sinh viên nào mà thấp thoáng từng toán bộ đội ngồi đứng  xa xa… Ngọc Trai đưa tôi vào một dãy nhà đang có đông người  lố nhố , có thường phục, có áo bộ đội , có nón cối , có dép râu, có mũ tai bèo, chợt một người quay ra nhìn tôi cười , khuôn mặt xanh xám , hai tay lỏng khỏng trong cái áo bộ đội quá khổ.  Người này nói ông rất vui khi gặp lại tôi… Tôi khựng lại và nhớ ra … anh Huỳnh.  Ngọc Trai nhanh chóng giới thiệu, Huỳnh là họ thôi, anh Tư đây nguyên là Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn đó. Tôi bật lên, à…
Mấy ngày sau đó, tôi hiểu ra, cái mặt ngoài là mồ côi cha của Ngọc Trai chỉ là cái vỏ bọc. Cô ta là con gái của một cán bộ nằm vùng. Căn nhà mà tôi đã từng tới, đã từng ngủ lại là một cơ sở  bí mật tàng trữ vũ khí. Công việc sản xuất đế giầy cao su chỉ là mặt nổi để họ vận chuyển vũ khí vào thành phố gói kín trong những bành cao su to đùng chuyển từ Tây Ninh về. Tôi còn biết thêm cái ghế bố mà tôi đã từng nằm được kê trên nắp hầm bí mật chứa vũ khí bên dưới. Sau này, người ta giữ lại căn nhà Ngọc Trai ở như một di tích, vì đó là nơi duy nhất ở Sài Gòn cất dấu vũ khí đạn dược mà không bị phát hiện.
Ngọc Trai tạo điều kiện để tôi tới nhà và gặp người Cha bí mật của mình. Thân phụ của cô người cao lớn, nói tiếng bắc vùng Nam Định, câu chuyện không dài nhưng cởi mở. Ông nói:
“Tôi nghe bà nhà nói về chuyện cậu với con Ngọc Trai nhà tôi. Tôi biết cậu là sĩ quan, muốn tính chuyện lâu dài, cần phải ổn định cuộc sống. Muốn ổn định thì cậu cần phải học tập. Tôi có thể giúp cậu bằng cách đưa cậu ra phường trình diện và đi học tập ngay. Học xong sớm rồi về mà xây dựng lại cuộc sống gia đình.
Tôi hoãn binh bằng cách nói rằng sẽ bàn lại với gia đình. Nhưng thực sự trong tinh thần hoang mang bất định lúc đó, tôi có cái cảm giác mọi chuyện không đơn giản như lời nói, và xã hội đang vận hành bằng những bước đi phức tạp và khá buồn. Tôi về, và bắt đầu tránh né những lần đi chung với Ngọc Trai. Rõ ràng vẫn là cô gái ấy, vẫn là những săn sóc chăm lo cho nhau, nhưng giờ đây một cái gì đó không tả ra được làm con người mình dường như không là mình nữa.
Lúc thân phụ Ngọc Trai (về sau tôi biết bí danh là Ba Mủ) đề nghị tôi đi học tập thì chưa có lệnh tập trung sĩ quan công chức miền nam đi học tập, nghĩa là lúc đó chẳng ai biết học tập cải tạo là gì, ra sao, và sau này, khi hồi tưởng lại, tôi cũng tin chắc rằng ngay cả người nằm vùng như bác Ba Mủ cũng không biết thế nào là tập trung cải tạo.
Ngọc Trai ghé nhà nhiều lần không gặp, để lại thư nhắn tôi lên số 4 Duy Tân buổi sáng để gặp bạn bè.
Khi tôi lên, gặp lại  Bằng, Hùng, Linh, Linh đầu bạc ,Hùng  hí và Di.  Di đề nghị chúng tôi lập lại một nhóm giống như Du Ca, lấy tên là Thanh Ca Tác Động. Nhóm này khi sinh hoạt tại số 4 Duy Tân đã tập trung lên đến hàng trăm thanh niên sinh viên tới chơi chung. Nhóm dược đưa vào hội trường chính để nghe hát và dạy hát cách bài ca mới, rồi đưa đi các trường Đại Học dạy lại cho sinh viên … Dường như chỉ khoảng vài tháng, một buổi sáng, đang tập họp thành vòng tròn, một cán bộ thành đoàn xuống phổ biến một thông báo, thông báo rằng giải tán tổ chức Thanh Ca Tác Động, và cấm các thành viên của nhóm tự ý tụ tập sinh hoạt bất cứ nơi đâu.
Chúng tôi chia tay nhau, ai về nhà nấy.
Không gặp lại Ngọc Trai.
Tháng 9 năm 1975, đợt đổi tiền đầu tiên ở miền nam  là một cú đấm trực diện vào kinh tế xã hội miền Nam. Thiếu thốn , kham khổ từ trước, nay nặng nề hơn thành đói kém , thê lương. Mọi gia đình đều cố gắng thu vén, bán được cái gì thì bán bớt bổ sung vào miếng ăn. Những gia đình họ hàng mà tôi quen biết, gia đình nào cũng có nỗi đau xót riêng, tựu trung là mất mát, chia ly, thiếu hụt và cái chung nhất là hoang mang không biết sẽ ra sao. Mấy anh chị  trong gia đình tôi thì hai người anh đi học tập cải tạo chưa biết bao giờ về, một gia đình người chị đi nước ngoài, một gia đình người chị ở lại đi dạy học và thường xuyên lên lớp với cái bụng trống không. Tôi không tìm được việc làm, kể cả công việc nặng nhọc như lao động.
Giữa lúc đó, Ngọc Trai tìm đến. Cô ta hỏi thăm về anh Diễm, người anh kế tôi, đang học tập cải tạo ở Đà Lạt. Mẹ tôi thở dài, không có tin tức gì, kể cả con dâu và bốn đứa cháu nội. Ngọc Trai hỏi Bác có muốn con đưa Nữu lên Đà Lạt thăm anh Diễm và gia đình không?  Tôi lắc đầu liền, không đi đâu, xe cộ khó khăn và tiền bạc không có. Nhưng mẹ tôi thì nghĩ đến con trai, con dâu và các cháu nên bị lung lạc. Để làm mẹ yên long, tôi theo Ngọc Trai lên Đà Lạt tìm thăm anh Diễm.
Khi xe chạy ra khỏi thành phố, chúng tôi ngồi bên nhau trong im lặng. Tôi đưa mắt nhìn mông lung những hàng cây  xa tít tắp, những mảnh vườn ,mái nhà  hiu quạnh bên đường. Tôi thoáng có ý nghĩ tìm một miếng đất  làm vườn làm rẫy sống qua ngày … Khi xe gần đến Bảo Lộc để chuẩn bị dừng cho khách ghé ăn trưa, Ngọc Trai dúi vào tay tôi tờ giấy 50 đồng, nói cầm lấy để chi phí lặt vặt cho chuyến đi.  Ăn trưa xong, tôi rút tiền ra trả nhưng nhân viên tiệm ăn từ chối. Tờ giấy 50 đồng quá lớn khi ăn hai đĩa cơm  chưa tới 3 đồng… Tờ 50 đó tôi giữ lại cho tới khi về lại Sài Gòn trả lại cho Ngọc Trai.
Những ngày ở Đà Lạt, Ngọc Trai trở về như  cô gái ngày xưa, đằm thắm, dịu dàng, sắc sảo và rất thông minh. Chúng tôi vào tận trại cải tạo ở Trại Mát  thăm anh Diễm, rồi sau đó đi thăm chợ Đà Lạt, Thác Prenn, Cam Ly, tản bộ trên sân Cù, đi bộ dọc theo hồ Xuân Hương.  Cả hai không đề cập hay nhắc tới chuyện tôi đến gặp bác Ba Mủ, hay chuyện tình cảm giữa hai người. Tôi biết chắc đó không phải là tình yêu, chúng tôi chưa bao giờ nói với nhau những lời tình tứ riêng tư.  Có lần, Ngọc Trai nói dường như tôi đã thay đổi nhiều lắm, cái sôi nổi, hào hứng ngày xưa có vẻ như đã chìm vào đâu đó.
-Không phải vậy, Ngày xưa khi tôi nói  là tôi tin rằng những điều mình nói là đúng, nên đủ tự tin để bày giải ra và hăng say bảo vệ nó.
-Còn bây giờ?
-Bây giờ? Bây giờ tôi nghi ngờ cả sự có mặt của tôi trên mặt đất này, không chừng cũng là điều không thực.
-Bạn không cảm thấy vui khi mình đi bên nhau sao?
-Ngọc Trai vẫn là một người nữ nhiều cá tính và thú vị.  Bên cạnh Ngọc Trai là bên cạnh những đợt cuồng phong, cạnh những làn sóng lớn, những chuyển dịch bất ngờ… và đôi khi từ đó vẫn nảy sinh những ước mơ nóng bỏng… nhưng …
-Nhưng sao?
-Nhưng đời sống vẫn phải có sự bình ổn về tinh thần. Sự bình an và thư thái nhẹ nhàng…..
-Bạn thấy bất an khi mình ở bên nhau?
-Không nói thế được, sự bất an trong tôi  bấy lâu nay là thường trực, dù có Ngọc Trai bên cạnh hay không.
Chúng tôi cùng im lặng , và giữ gìn tránh trao đổi cho tới lúc về lại Sài Gòn. Tôi buồn. Và buồn hơn khi tôi biết tôi làm Ngọc Trai buồn. Ngọc Trai dành cho tôi rất nhiều sự quan tâm, và có thể nói là chiều chuộng, ngoài trừ những lúc tranh luận, còn không thì Ngọc Trai chiều chuông như chiều chuộng một đứa em. Bên cạnh Ngọc Trai tôi thấy mình nhỏ bé và thiếu tự tin. Tôi quý Ngọc Trai nhiều lắm, nhưng cái tình cảm đó có vẻ như tình bạn, một tình bạn không bình đẳng mà tôi thuộc về phía yếu kém.
Khi xe về đến bến ở đường Nguyễn Tri Phương, chúng tôi đi bộ về nhà Ngọc Trai sau đó cô ta lấy xe chở tôi đi. Chúng tôi chạy loanh quanh và ghé ngang qua 19 Kỳ Đồng. Ngôi biệt thư bây giờ bỏ hoang, không người cư trú. Cây hoa sứ lớn giữa sân trong bóng đêm như tỏa ra một vòm tối ám, âm u, nhìn lên trên lầu, cái cửa sổ rộng mở toang, nhìn vào bên trong một khoảng nhờ nhờ trắng , hoang tịch. Ngọc Trai hỏi tôi có muốn ghé vào thăm một chút không. Tôi lắc đầu.  Ngọc Trai đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ gấp tư và bảo lát về nhà hãy đọc, rồi rồ ga chạy.
Khi Ngọc Trai chở tôi về nhà ở cầu chữ Y, trời đã tối, chuyến đi bốn ngày làm cơ thể tôi nhão ra như mất sức, những suy nghĩ dằn vặt làm tôi chóng mặt và có cảm giác như đang sốt. Tôi lăn ra ngủ. Sáng hôm sau, thức dậy, chợt nhớ tới tờ giấy Ngọc Trai đưa hôm qua, tôi ngồi dậy lục tìm và mở ra. Trong đó chỉ một dòng chữ ngắn :
“Philippe ơi,  đọc  nhật ký của Isabelle nhé”
Philipe là nhân vật nam, còn Isabelle là nhân vật nữ trong tác phẩm Climats (Mặc Đỗ dịch với tựa là Tâm Cảnh) của André Maurois. Cuốn sách Ngọc Trai tặng tôi hồi hai đứa mới quen nhau, tôi tìm trong nhà, không còn cuốn đó, nhưng vì là sách được dậy trong chương trình giáo khoa lớp đệ nhị, nên tôi nhớ đại khái là khi Bác Sĩ Philipe chết vì bệnh phổi, vợ ông, Isabelle,  viết trong nhật ký hồi tưởng, câu kết thúc nhật ký và cũng là kết thúc tác phẩm là : “ Em tin rằng nếu em giữ được anh, em sẽ biết cách đem vui sướng đến cho anh, nhưng định mệnh và lý trí chúng ta thường lỗi điệu”.
NGUYỄN MINH NỮU
Virginia, tháng 5.2018

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2025

642 . VŨ HOÀNG CHƯƠNG : Di SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM : ĐỜI VẮNG EM RỒI SAY VỚI AI. Thơ

abc

Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu,
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu.
Thôi rồi, tay nắm tay lần cuối,
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.

Trai lỡ phong vân gái lỡ tình,
Này đêm tri ngộ xót điêu linh,
Niềm quê sực thức lòng quan ải,
Giây lát dừng chân cuộc viễn trình.

Tóc xoã tơ vàng nệm gối nhung,
Đây chiều hương ngát lả hoa dung,
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo,
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.

Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay,
Buồn mưa, trăng lạnh; nắng, hoa gầy.
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say.

Gặp gỡ chừng như truyện Liểu Trai.
Ra đi chẳng hứa một ngày mai.
Em ơi! lửa tắt, bình khô rượu,
Đời vắng em rồi, say với ai?

Phương Âu mờ mịt lối quê Nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang.
Ghé bến nào đây, người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng?

Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?
Mà đây lòng trắng một mùa đông.
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi,
Thoảng gió... trà mi động mấy bông.


Bài thơ ban đầu có tên là Đời vắng em rồi, nhưng sau được đổi thành Đời vắng em rồi say với ai. Tên này sau cũng được dùng đặt cho một một tập thơ khác.

642 . SONG THAO : Đọc "NGÔ ĐÌNH DIỆM và TÔI" của BÙI CÔNG VĂN

                                                                                                         


ĐỌC “NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ TÔI” CỦA BÙI CÔNG VĂN 

*SONG THAO

Năm 1953, một biến cố lớn xảy ra: ông Diệm được mời qua Pháp. Đây là một lời mời quan trọng khiến ông phải suy nghĩ lung. Ông rời nhà ông Văn, về lại chủng viện Maryknoll để tĩnh tâm suy nghĩ. Khi đó tình hình tại Đông Dương ngày càng tồi tệ sau những thất bại liên tiếp của quân đội Pháp trên chiến trường. Có lẽ ông Diệm thấy tình thế đã chín mùi nên quyết định đi. 

Đầu tháng 5 năm 1953, ông Diệm rời New York qua Paris. Hành lý chỉ có một chiếc va-ly và một chiếc cặp. Toàn thể đồ đạc còn lại, ông đã gửi nơi nhà ông Văn gồm sách vở, giấy tờ, quần áo và vật dụng cá nhân. Ông dặn ông Văn sau này gửi qua Paris cho ông Tôn Thất Cẩn nhận và giữ cho ông. Chiếc cà vạt cũ của ông bữa ra phi trường không thắt được nên ông Văn tặng ông một chiếc cà vạt mới.

Ông Diệm ra đi, nhà ông Văn bỗng vắng vẻ hẳn. Không còn ông trong căn phòng ngủ, không còn khách lai vãng, không có những cuộc trò chuyện xuyên đêm. Chiếc ghế dài ông nằm suốt nhiều tháng chừ vẫn còn in dấu người, chỗ giữa lún xuống, cong hẳn đi. Đám con ông Văn ngày nào cũng hỏi ông nội Maryknoll đâu rồi. Muriel còn quá nhỏ để nhớ hay trò chuyện về ông, nhưng với Dominic Mỹ Châu, chúng tôi đành phải nói rằng: “Ông nội Maryknoll sẽ quay lại sau vài tuần nữa.” Than ôi, câu nói ấy khiến hai đứa bắt đầu mong ngóng ông, chờ ông trở về với tay cầm trái cây hay một món đồ chơi nào đó, giống như những lần ông quay lại sau vài ngày các chủng viện Maryknoll tại Lakewood hay Ossining. Chỉ có Marie là biết rằng ông nội đã sang Pháp - đi mãi mãi. Rằng thể ông sẽ trở lại, nhưng điều đó, thực tế, không thể”.

Giáng Sinh năm 1953, ông Văn viết cho ông Diệm một tấm thiệp với hàng chữ:  “Tôi biết rằng quyền lực tự thân chưa bao giờ điều ông quan tâm, nhưng đất nước cần ông, cần sự lãnh đạo của ông. Xin hãy tha thứ cho sự tự phụ của tôi. Tôi bây giờ còn nôn nóng hơn cả lúc ông còn ở đây với chúng tôi, vì giờ ông không còn ở đây để chúng tôi cảm giác đang một mục tiêu ràng. Tôi biết ông sẽ gặp vô vàn trở ngại ở Paris, nhưng xin cho phép tôi mượn một câu nói cũ: ‘Anh hùng tạo thời thế thì thời thế cũng tạo anh hùng.’ Thưa ông, tôi nói điều này hoàn toàn xuất phát từ đáy lòng, không hề mang theo bất kỳ động thầm kín nào.”

641 . PHAN TẤN UẨN : Vui Với VĂN CHƯƠNG HẢI NGOẠI

                                                                                                  


 

VUI VỚI VĂN CHƯƠNG HẢI NGOẠI

Tản mạn : Phan Tấn Uẩn

**

     Khi qua Mỹ định cư,tôi liên lạc ngay với Trần Hoài Thư (cuối năm 2005). Mãi đến 12 năm sau (2017) khi về hưu, tôi mới có dịp liên lạc với nhà văn Lê Thị Huệ và nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh. Những người nầy đã khuyến khích tôi cầm bút trở lại.   

     Tuần lể đầu tiên đặt chân lên Florida, ghé siêu thị Tiến Hưng ở Orlando, trong nhiều tập báo quảng cáo như Trẻ, Gia Đình…, tôi đọc thấy mấy hàng giới thiệu tập bút ký “ Những người cổ trắng” của Trần Hoài Thư, biết được số điện thoại, gọi ngay, báo tin đã qua Mỹ. Bạn chúc mừng ,hỏi thăm và sau đó liên lạc qua email, rồi có kết nối 18 năm liền mạch đến ngày cuối cùng. Ngày bạn mất, tôi chỉ có vài hàng chia buồn trên Facebook mà không đủ thông tin để viết một bài tưởng nhớ góp mặt với anh em văn báo. Nhân đây tôi muốn ghi một vài chi tiết trong mối quan hệ riêng tư như lời tưởng nhớ bạn. Trước bảy lăm tôi chỉ gặp Trần Hoài Thư một lần ở 666 Phan Thanh Giản,SàiGòn (tòa soạn Ý Thức) trong một dịp ngẫu nhiên không hẹn trước. Quá bất ngờ không biết nói gì, thấy mặt nhau cũng đủ vui. Cả hai đang ở trong quân ngũ. Tôi gấp gáp trở về ĐàNẳng, bạn trở về đơn vị… Trên 100 số báo Thư Quán Bản Thảo, tôi chỉ có bài viết duy nhất, kể  “Vài Kỷ Niệm Về Tạp Chí Ý Thức”  trên số 88 (tháng 2/2020), mặc dù nhiều lần bạn nhắc và gợi ý tôi viết về đề tài quân đội. Chuyện nầy phải đợi đến khi bộ quân phục trong bức ảnh treo tường thôi thúc, tôi mới có hứng thú viết về tám năm quân ngũ, vì nó liên quan đến gia đình tôi. Xin nói thêm cho rõ. Lúc con trai tôi được visa du học Mỹ năm 1997, nó đã bị nhiều người Việt đồng hương ở Cali ngộ nhận là con cán bộ qua Mỹ du học , vì “Cha mầy là sĩ quan học tập cải tạo thì tiền đâu cho mầy đi du học, nói láo”. Nó qua Mỹ vào thời điểm cọng đồng người Việt ở Cali sôi sục biểu tình chống Cọng. Những tháng đầu ở Cali trong nhà người bác họ ,nó bị lôi kéo đi biểu tình liên miên, có lần bị đẫy lên hàng đầu rất nguy hiểm. Nó phát hoảng, gọi điện thoại cho chúng tôi ở SaiGon giọng đầy lo lắng. Tôi phải gởi qua Mỹ cho nó bản chụp lại bức ảnh của tôi ,bảo nó mang theo làm bùa … hộ mệnh. Đó là bức ảnh độc đáo ghi nhận dấu ấn trong  đời lính, chụp vào tháng 6 năm 1972 giữa một  trưa hè nắng gắt trên bờ cát biển Cửa  Đại – Hội An.Trần Hoài Thư gởi tôi đủ bộ 4 tập Văn Miền Nam, Thơ Tự Do Miền Nam, nhiều số báo Thư Quán Bản Thảo và nhiều tác phẩm của Di Sản Văn chương Miền Nam (đặc biệt thích nhất cuốn Cỏi Đá Vàng của Nguyễn Thị Thanh Sâm), cọng lại toàn bộ hơn năm ngàn trang, tôi đã mấy lần gởi check ($100/lần) về New Jersey, nhưng chưa lần nào thấy bạn đến ngân hàng rút tiền. Quá nhiều người viết về công lao của Trần Hoài Thư đối với di sản văn chương Miền Nam, tôi chỉ biết ngậm ngùi…Bạn đi để lại biết bao tình . Nói chẳng nên lời, thôi lặng thinh… Sau khi về hưu, tôi  rất háo hức muốn biết tình hình sinh hoạt của Văn học hải ngoại. Trước hết, muốn biết tung tích các nhà văn Miền Nam trước 75, tôi tìm đọc những bài phỏng vấn hoặc những ghi chép về các nhân vật nầy. Bài phỏng vấn nhà văn Hoàng Hải Thủy là bài đầu tiên tôi đọc trên internet. Tiếp theo là các phỏng vấn Văn Quang, Vương Tân…giúp tôi biết được nhiều thông tin hấp dẫn, thỏa trí tò mò .Như một phóng viên năng động lành nghề, nhà văn Lê Thị Huệ biết cách đặt những câu hỏi khiến người được phỏng vấn có dịp nói ra hết những gì muốn nói. Tôi liên lạc với chủ biên của trang gio-o và gởi những truyện ngắn đăng trên Văn, Khởi Hành, Ý Thức, Thời Tập trước 75 để lưu giữ trên trang mạng văn chương nầy. Sau đó, nhận được email đề nghị phỏng vấn, tôi từ chối vì tự xét thấy mình không đủ tư cách nhà văn để trả lời những câu hỏi thuộc về văn học nghệ thuật…  Một lần tôi đánh tên mình vào Google Search, bất ngờ thấy hiện ra tất cả những gì tôi đã viết từ trước bảy lăm ở Miền Nam đến sau 75 ở Mỹ. Những truyện ngắn và bút ký  lưu giữ trên  gio-o được thiên hạ mang ra đọc trên các YouTube và cũng xuất hiện trên các trang mạng văn chương khác. Vô tình chúng cũng được hồi sinh như bộ quân phục của tôi. Ngay cả mười cuốn sách kỹ thuật hướng dẫn sửa chữa các loại máy điện tử dân dụng (radio, cassette,TV,DVD) tôi viết cho học viên học nghề của Trường Điện Tử ĐaKao của tôi ở Việt Nam cũng xuất hiện đầy đủ trên các mạng học thuật trong nước như các trung tâm dạy nghề , Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, Trường Đại Học Tổng Hợp…    Bộ Sách đồ sộ 7 tập “ 44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-2019” (VHVNHN) do nhóm Khánh Trường – Luân Hoán – Nguyễn Vy Khanh thực hiện năm 2019 ghi nhận số người cầm bút hải ngoại lên đến con số hơn ba trăm… Bút ký của tôi xuất hiện trong tập 4 cho thấy  công việc của nhóm chủ trương có vẻ như một cuộc “săn tìm” số người đã từng viết văn đang có mặt ở hải ngoại, còn chất lượng của văn chương nghệ thuật chỉ là thứ yếu (?).Nguyễn Vy Khanh gởi email yêu cầu tôi góp bài cho bộ VHVNHN . Tôi gởi nhiều bài,cuối cùng anh chọn bút ký Bức Ảnh Hồi Sinh. Bút ký viết hối hả, nhớ đâu viết đó như sợ những hồi ức biến mất không tìm lại được miễn sao chúng xuất hiện trên giấy trắng mực đen với mục đích rõ ràng  chỉ dùng cho con, cháu đọc để bọn nhỏ biết về quá khứ của cha mẹ chúng.Tham khảo qua nhiều ý kiến và nhận định của nhiều người trong văn giới về bộ “44 NĂM VHVNHN 1975-2019", tôi xin tạm đúc kết như sau : Bộ “44 NĂM VHVNHN 1975-2019"có thể không có nhiều giá trị nghệ thuật sâu sắc theo hướng phê bình hay sáng tạo, nhưng chúng ta không thể bỏ qua nó. Một số giá trị có thể là:. Ghi lại lịch sử VHHN: Bộ sách như một kho tư liệu ghi nhận sự tồn tại và đóng góp của các nhà văn, nhà thơ người Việt sống ở nước ngoài. Nó giúp các thế hệ sau hiểu hơn về một giai đoạn văn học đã bị ảnh hưởng bởi biến cố lịch sử 30 tháng tư năm 1975.. Bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ tiếng Việt : Việc các tác giả hải ngoại tiếp tục sáng tác bằng tiếng Việt là một cách bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa trong cộng đồng người Việt lưu vong. Bộ sách là minh chứng cho việc tiếng Việt vẫn được duy trì trong môi trường mới.. Tạo cơ hội kết nối: Dù không đi sâu vào phân tích hay phê bình, việc tập hợp hơn 300 tác giả lại có thể giúp họ kết nối với nhau, chia sẻ quan điểm và tìm thấy sự đồng cảm qua tác  phẩm.. Phát hiện những tài năng tiềm ẩn: Dù không có sự phân chia trường phái hay phê bình tác phẩm tác giả, độc giả vẫn có thể phát hiện ra những tác giả tiềm năng, từ đó có thể dẫn đến những nghiên cứu, phân tích chuyên sâu hơn về tác phẩm của họ trong tương lai.Bộ sách, theo cách đó, vẫn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo tồn di sản VHHN. Nhắc đến VHHN, tôi chỉ biết 44 NĂM VHVNHN, vì giai đoạn từ 1975 đến 2017, tôi không đọc và cũng không biết gì về hoạt động của các nhà văn hải ngoại..

 Cũng nói về VHHN từ năm 2017 đến nay , dù không tích cực hoạt động, nhưng tôi rất quan tâm đến sinh hoạt của nó , đặc biệt là các nhà văn hiện vẫn còn sáng tác (2024).Nếu phải chọn một nhân vật có thể là tấm gương cho đàn em con cháu hải ngoại noi theo trên con đường duy trì dòng chảy của VHHN, tôi không ngần ngại gọi tên Trịnh Y Thư. Tôi thích tác giả nầy. Đây là nhà văn có thể là đầu tàu vì tính đa tài đa năng. Trước hết, tài năng dịch các tác phẩm khó dịch như Trịnh Y Thư từ lâu phải được nhắc đến. Tôi đã in và đọc hai tác phẩm Trịnh Y Thư dịch từ tiếng Anh của Milan Kundera (Sách Cười & Sự lãng quên :The book of Laughter And Forgetting và Đời Nhẹ Khôn Kham : The Unbearable Lightness of Being) mới biết độ khó chuyển ngữ của hai tác phẩm nầy. Trịnh Y Thư là nhà văn vẫn còn sáng tác hiện thời, đã trải qua mấy chục năm kinh nghiệm viết văn tiếng Việt, có lợi thế lớn giữ cho dòng VCHN không bị đứt quãng…Cùng với niềm vui viết văn, tôi phải kể đến phòng in sách Kim Cương Ấn Quán mà tôi đã âm thầm gầy dựng từng công đoạn suốt trong năm 2012 để cuối cùng chọn ngày mất của Phạm Duy để in cuốn sách mở đầu “ Phạm Duy, Ngày Ra Đi” (sưu tầm những bài viết về Phạm Duy) vào ngày 27/1/2013. Cũng áp dụng kỹ thuật POD ( Print On Demand : In theo yêu cầu) nhưng cách làm của tôi khác hẳn Thư Ấn Quán…Cơ sở nầy chủ yếu in sách cho tủ sách gia đình  và các bộ kinh Phật, in một số sách xưa do vài facebooker yêu cầu, đặc biệt in một Tập San Quốc Học kết nối các bạn học cũ đang sống tản mát khắp thế giới. Cơ sở in chiếm dụng thời gian rảnh rỗi của tôi nhiều lần hơn so với  chuyện viết văn vì niềm vui quá lớn do nó mang lại…Học tập cải tạo trở về, không có thì giờ khám phá bản thân để sống cho ra hồn, nói chi đến chuyện chơi văn giỡn chữ. Tôi không phải là nhà văn, nhưng viết văn là một sở thích từ nhỏ. Qua Mỹ định cư, viết văn giống như một quá trình hồi phục tinh thần, chẳng khác gì hành trình khám phá lại bản thân.Viết để có dịp gắn kết cộng đồng, nơi ta có thể tìm thấy khuyến khích, ủng hộ và cộng tác.

Gainesville 

Dec 2024

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025

640. THÂN TRỌNG SƠN - UYỂN NGỮ


 

Tôi báo cho bạn: HVU đã ra đi. Ông biết chưa? - Chưa, mà đi đâu?

Tôi ngỡ ngàng. Bạn hiểu nghĩa đen, còn tôi muốn nói ý khác. Tôi thêm: Đi xa, về bên kia thế giới. Với người khác, tôi nói: U. mất rồi. Họ hỏi lại: Mất gì?

Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT.

 

CHẾT là một từ có sắc thái tiêu cực, gợi lên cảm giác đau buồn, mất mát cho người nghe. Từ này cần được thay thế bằng từ khác có ý nghĩa tương tự.

Có thể dùng: qua đời, khuất núi, trút hơi thở cuối cùng, lên đường theo tổ tiên, về nơi tiên cảnh, nhắm mắt xuôi tay, an giấc ngàn thu, quy tiên, rời cõi tạm, thác, ra đi mãi mãi, về nơi chín suối, trở về với cát bụi, đi gặp ông bà ông vải, trở thành người thiên cổ, về cõi thiên thai, ăn xôi nghe kèn. Trong ngữ cảnh nhất định, còn có thể nói: không qua khỏi ( bệnh tình quá nặng, chúng tôi đã làm hết sức nhưng ông ấy không qua khỏi. Anh ấy đã hy sinh, đã không bao giờ trở về nữa.

639 PHAN TẤN HẢI - PALESTINE , Những dòng thơ không bao giờ chết.

Phan Tấn Hải

Palestine: Những dòng thơ không bao giờ chết


Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót.

Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được  nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm, rút dao, đâm kiếm để hoàn tất những cuộc thập tự chinh, hay đi chiếm đất từ Á sang Âu, từ Nam ra Bắc. Các thương binh thời đó không được chữa trị, vì cũng chẳng có bác sĩ quân y nào, phải nằm chờ chết nơi ven rừng, góc biển. Bây giờ thì chiến tranh dữ dội hơn, phần lớn là chết liền, chết chớp nhoáng, và kể cả chết mà chẳng hiểu vì sao.

Hãy đọc những dòng này của Mosab Abu Toha, một nhà thơ Palestine 33 tuổi, khi anh kể về một cái chết ở Gaza:

Chị ngủ trên giường,
không bao giờ thức dậy nữa.
Giường của chị đã trở thành nấm mồ của chị,
một nấm mồ bên dưới trần phòng,
trần nhà, một đài tưởng niệm.
Không tên, không năm sinh,
không năm chết, không bia mộ.
Chỉ có máu và một khung ảnh bị vỡ
kế bên chị.


                                                         
Nhà thơ Mosab Abu Toha là một người Palestine sinh trưởng trong rào kẽm gai và các nhà lều tỵ nạn ở Gaza. Năm 2014, nhà thơ Mosab Abu Toha đã được truyền cảm hứng từ một cuốn sách mà anh cứu được từ đống đổ nát để thành lập Thư viện Công cộng Edward Said tại Thành phố Beit Lahia, thư viện tiếng Anh đầu tiên của Gaza. Học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky đã ca ngợi thư viện là "một tia sáng và hy vọng hiếm hoi cho những người trẻ tuổi ở Gaza". Abu Toha ước mơ qua thư viện và thi ca sẽ kể lại những ước mơ hạnh phúc với những người dân Gaza khác trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm dưới sự chiếm đóng của Israel, cũng như những trở ngại mà anh phải đối mặt trong việc tiếp cận các nguồn lực, từ sách vở đến nhà cửa. Abu Toha là nhà thơ thế hệ trẻ. Trước anh, đã có những nhà thơ Palestine khác đã bị quân đội Israel giết.

Nhà thơ Mosab Abu Toha cứu được một cuốn sách từ gạch vụn Gaza năm 2014, gợi ý cho anh làm thư viện. (Hình từ chương trình Harvard University Scholars at Risk Program)

638 . Câu chuyện nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn bị giả mạo trên mạng xã hội.

Hiện nay, trên mạng xã hội có nhiều tin giả về nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn và nhiều kênh YouTube giả mạo mạo kênh YouTube của nhà văn. Video này, do VietFaceTV thực hiện, nhằm làm rõ các vấn đề trên.

Nguồn: officialVietFaceTV

 

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

GIỚI THIỆU SÁCH . TÁC PHẨM: NƯỚC MỸ: CHUYỆN ĐỜI CHUYỆN NGƯỜI của VÕ PHÚ.

                                                                               


Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người

Nguyễn Quốc Huy 

 

Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người là tập truyện thứ hai của Võ Phú viết về cuộc sống tại Mỹ, nối tiếp quyển Nước Mỹ: Những Mảnh Ghép Rời. Tác phẩm tiếp tục mở ra những câu chuyện đời thường, giản dị nhưng đầy chiều sâu, về  nước Mỹ. Mỗi câu chuyện không chỉ phản ánh cuộc sống hàng ngày mà còn ẩn chứa những suy ngẫm sâu sắc về xã hội và con người.

Tập truyện không chỉ dành cho những ai đang sống tại Mỹ mà còn cho tất cả những ai yêu thích khám phá những câu chuyện đời thường đầy ý nghĩa. Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người hứa hẹn sẽ khiến người đọc say mê, bởi từng trang viết giản dị mà chứa đựng những cảm xúc và triết lý sâu sắc về cuộc sống.

Với Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người, Võ Phú đã khắc họa cuộc sống nơi đất Mỹ một cách chân thực và sắc nét. Những câu chuyện không chỉ phản ánh đời sống của người Việt tại Mỹ mà còn dẫn dắt người đọc vào hành trình khám phá văn hóa và sự hội nhập trong một xã hội đa dạng và đang thay đổi từng ngày. Các câu chuyện của Phú không chỉ đơn giản là những mẩu chuyện về cuộc sống, mà còn là những câu hỏi lớn về bản sắc, về sự khác biệt văn hóa và quá trình hòa nhập của những người mới đến.  

 

Điều đặc biệt trong Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người là sự gần gũi trong cách viết của Võ Phú. Từ những chi tiết đời thường như đi chợ, gặp gỡ bạn bè, trò chuyện với hàng xóm, tác giả tạo ra những cơ hội để bộc lộ sự quan sát tinh tế về những thăng trầm trong xã hội hiện đại. Mỗi câu chuyện là một mảnh ghép trong bức tranh tổng thể về nước Mỹ, giúp người đọc nhìn thấy những góc khuất ít ai để ý, nhưng lại là phần không thể thiếu trong việc hiểu rõ hơn về đất nước và con người nơi đây.

Bằng giọng văn nhẹ nhàng nhưng đầy tính nhân văn, Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người không chỉ là một tập truyện ngắn mà còn là một cuốn nhật ký sống động, ghi lại những suy ngẫm, cảm xúc và trải nghiệm của tác giả. Đọc cuốn sách này, người đọc sẽ nhận ra những mảnh ghép trong chính cuộc đời mình, dù là ở Mỹ hay bất cứ đâu. Đây là một tác phẩm không chỉ dành cho người Việt xa xứ mà còn cho tất cả những ai yêu thích sự giản dị nhưng đầy chiều sâu trong cách nhìn nhận cuộc sống.

Với Nước Mỹ: Chuyện Ðời, Chuyện Người, Võ Phú không chỉ viết về những câu chuyện đời sống mà còn viết về chính chúng ta, những người đang tìm cách hòa nhập, hiểu và yêu thương thế giới xung quanh. 

 

 

 

 

637 . DOÃN QUỐC SỸ- DI SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM - CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG

                                                                                                    


Peter S. Beagle - Doãn Quốc Sỹ dịch

Con Kỳ Lân Cuối Cùng

HIỆN ĐẠI THƯ Xàxuất bản 1973

Nguyên tác: THE LAST UNICORN của Peter S. Beagle do Ballantine Book, Inc., New York xuất bản lần Thứ Tư, 1972.

Copyright © 1968 by Peter S. Beagle

Bản dịch Việt văn của Doãn Quốc Sỹ, do Hiện Đại Thư Xã xuất bản, với sự chấp thuận của tác giả Peter S. Beagle.

HIỆN ĐẠI THƯ XÃ

28, Phùng Khắc Khoan SAIGON - Đt: 93771


TỰA CỦA DỊCH GIẢ

Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu, nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần tri kỷ.

Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ.

Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST UNICORN ra sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin được tuần tự nêu như sau đây:

- Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay, lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ lân.

Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập tắt ngấm.

Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó. Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của Peter S. Beagle chính là ở điểm này.

Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ. Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế giới này.

Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta.

Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc thường nhật.

Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền. Thiện - Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng, gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối, được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được.

Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây - của tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu. Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn?

DOÃN QUỐC SỸ