



Cảnh miền đồi núi
50 NĂM ÂM NHẠC HẢI NGOẠI (1975 -2025)
Nguyễn
Phú Yên
Năm 1975, sau sự
sụp đổ của
chế độ Việt
Nam Cộng hòa, một
bộ phận người Việt liên quan chính quyền cũ rời khỏi Việt Nam với các hình thức di tản, vượt biên,
các dạng bảo lãnh của chính quyền (HO), bảo lãnh gia đình hoặc ra đi trong trật
tự (ODP). Các cộng đồng người Việt sống lưu vong tại nhiều nước trên thế
giới, tập trung ở các nước châu Âu, châu Mỹ, đông nhất là tại Hoa Kỳ mà hiện nay đã đạt đến con số 2,3 triệu
người. Trong số những người lưu vong có nhiều nghệ sĩ, diễn viên, nhạc sĩ, ca
sĩ. Trong hoàn cảnh ly hương, các nhạc sĩ cũ và mới tiếp tục sáng tác nhiều bài
hát mới.
Nhạc hải ngoại là một khái niệm thường được dùng để chỉ các hoạt động
âm nhạc do các nghệ sĩ gốc Việt sáng tác và trình bày tại các nước mà người Việt
sinh sống. Nền âm nhạc đó còn bảo lưu những ca khúc tân
nhạc Việt Nam thuộc
nhiều dòng nhạc khác nhau đã từng hiện diện ở trong nước mà họ đem theo
như nhạc
tiền chiến, rồi
đến các sáng tác với nhiều chủ đề từ 1954 đến 1975. Ngoài ra trong hoàn cảnh mới
có những sáng tác được viết trong nhiều thập niên sau 1975, trong đó có những
ca khúc nước ngoài được viết lời Việt hay những sáng tác mang âm hưởng dân
ca ba miền. Họ còn viết các thể loại nhạc không lời, nhạc kịch, nhạc
đương đại... để
phục vụ các thế hệ trẻ.
Có thể kể đến các dòng chảy nhạc Việt chính như sau.
1.
Dòng
nhạc về thân phận lưu vong.
Người rời bỏ quê hương luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thân phận lưu
vong. Từ đây trong hoàn cảnh mới, họ cảm thấy xa lạ nơi vùng đất mới, xa lạ với
mọi phong tục, tập quán của họ trong quá khứ. Một thứ tiếng nói lạ họ phải làm
quen. Do đó, trong cuộc sống, khi đối diện với chính mình, họ luôn bày tò cảm
xúc của một người mang tâm trạng lưu đày đang đi tìm một chốn nương thân. Chủ đề
thân phận lưu vong đã xuất hiện trong sinh hoạt văn nghệ của họ ngay từ những
ngày đầu mới đến vùng đất mới.
Có thể nói tác phẩm của NS Nam Lộc là tâm
trạng của một người di tản cô đơn, buồn khổ, khi họ nghĩ đến quê hương xa vời, nơi
đó có những con phố, những hàng cây thân quen, nghĩ đến người thân yêu của mình
có thể lạc loài ở phương trời nào đó với bao nỗi trầm luân:
Chiều nay có một người
đôi mắt buồn
Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa…
Cho tôi xin lại một ngày, ở nơi nơi thành phố cũ
Cho tôi xin lại một đời, một đời sống với quê hương
Cho tôi đi lại đoạn đường, hàng cây vương dài bóng mát
Cho tôi an phận ngàn đời, bên bờ đê vắng làng tôi…
(Nam Lộc, Người di tản buồn)
MÙA
XUÂN VĨNH VIỄN
Hỏi
tức là thưa, hỏi chỉ để mà hỏi! Em chẳng về phó hội thì làm sao có mùa xuân, mắt
biếc má đào không còn long lanh thì đời làm gì có mùa xuân, chắc chắn em sẽ về
mỗi độ xuân sang. Mùa xuân đẹp lắm ư? nói thế khác gì khen “ Phò mã tốt áo”,
mùa xuân là hiện thân của cái đẹp cơ mà! Mùa xuân mở đầu vận hội mới, mùa xuân
là sức sống, là tuổi trẻ, là niềm tin và hy vọng trong đời.
Có
gã từng bảo rằng:
Xuân
đất trời bây giờ mới đến
Trong
lòng tôi xuân đến đã lâu rồi
(
Thơ TLTP)
Mùa
xuân của đất trời mỗi năm có một lần, mùa xuân trong lòng người thì chẳng nệ thời
gian. Nó laị lệ thuộc vào tâm tưởng của chính mình, khi mình vui thì xuân hiển
hiện; khi mình đau buồn thì chẳng thể thấy mùa xuân. Xuân trong nhà Phật còn gọi
là xuân Di Lặc, vì ngày đầu xuân là ngày vía của ngài. Trong văn học nước nhà,
thơ văn Lý- Trần là một mảng quan trọng, là thành tựu, là dấu ấn của một thời độc
lập tự chủ, một thời phát triển rực rỡ của dân tộc. Trong ấy có bài thơ- kệ “
Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư
mà hầu như ai ai cũng biết, cũng thuộc:
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai
Mùa xuân vĩnh viễn, mai có rụng, hoa tàn hương tận thì mùa xuân vẫn không bao
giờ tàn. Hoa mai của đất trời có nở, có tàn nhưng đoá mai trong lòng người thì
vĩnh viễn và mãi mãi.
Mùa
xuân dân tộc ta cũng trải dài mấy ngàn năm, tuy có lúc thăng trầm, có lúc tưởng
chừng như diệt vong nhưng rồi laị hồi sinh. Mùa xuân năm bốn mươi, Hai Bà Trưng
khởi nghĩa đuổi Tô Định về phương Bắc, lấy sáu mươi thành lập quốc đóng đô ở Mê
Linh. Mùa xuân 504 Lý Bí đánh đuổi bọn thái thú về Tàu và lập nhà nước Vạn
Xuân, xuân đất trời, xuân dân tộc cùng rạng rỡ. Xuân Kỷ Hợi Ngô Quyền khôi phục nền độc lập tự chủ, chấm
dứt ngàn năm Bắc thuộc. Mùa xuân Mậu Thìn, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế lập nước Đaị Cồ
Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Kế đến là những mùa xuân nhà hậu Lý, mở đầu một kỷ
nguyên mới, làm nền tảng cho một thời kỳ độc lập tự chủ và phát triển rực rỡ của
dân tộc. Mùa xuân Yên Tử, thượng hoàng
Nhân Tông lên núi tu hành mở ra trường phái Trúc Lâm- Yên Tử, một dòng thiền
thuần Việt, những mùa xuân của thời kỳ mà lịch sử gọi là “ Hào khí Đông A”. Mùa
xuân Mậu Tuất, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh, dựng laị cơ nghiệp
bị giặc Bắc phương hủy diệt mong đồng hoá dân ta. Mùa xuân Kỷ Dậu với chiến thắng
Đống Đa, mở ra một kỷ nguyên mới, đây là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng ca dựng
nước và giữ nước. Giặc phương Bắc chưa bao giờ sợ ta đến như vậy! Mùa xuân Kỷ Dậu
còn gọi là mùa xuân Đống Đa, mùa xuân chiến thắng… Sau này, khi vua Quang Trung
băng. Ngọc Hân, nàng công chúa tài hoa đã viết những giòng thơ tâm huyết ca ngợi
người anh hùng dân tộc vắn số:
Mà
may áo vải cờ đào
Giúp
dân dựng nước xiết bao công trình
Dòng
sử dân tộc gắn liền với những mùa xuân hiển hách, nhưng cũng có những mùa xuân
đau buồn lắm. Để bảo toàn tánh mạng của giòng tộc trước sự tận diệt của Trần Thủ
Độ. Hoàng tử Lý Long Tường phải mang gia đình và gia nhân vượt biển sang Cao Ly
lánh nạn, cuộc lánh nạn kéo dài mười thế kỷ, mãi đến cuối thế kỷ hai mươi naỳ hậu duệ mấy mươi đời mới tìm về cội nguồn
ở Đình Bảng. Những năm tháng lưu lạc,
hoàng tử đã lập vọng quốc đài để ngày ngày lên đài ngóng về quê hương. Người Việt
vốn là cư dân của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, sống quây quần trong xóm
làng, dòng tộc… ít khi nào đi xa, những khi buộc phải ly hương là bất đắc dĩ lắm.
Cũng trong thế kỷ hai mươi này, nước Việt nhiều loạn lạc. Cả triệu người Việt
phải ly hương, rồi dần dần hình thành nên những cộng đồng Việt bên ngoài biên
giới nước nhà. Người Việt dù sống ở đâu cũng nhớ về quê cha đất tổ, có thể con
người ta ra đi với nhiều lý do nhưng ai cũng mang trong tâm hồn mình hình bóng
quê nhà. Đạo Phật gắn liền với dân tộc hai ngàn năm nay, dù có là Phật tử hay
không thì ít nhiều hình bóng ngôi chùa cũng có trong tâm tưởng. Tư tưởng sống “Ở
hiền gặp lành”, “ Nhân nào quả nấy”, “Gieo gió gặt bão”… đều thấm đậm tư tưởng
và triết lý của nhà Phật. Vì vậy khi ly hương, khi sống nơi viễn xứ con người
ta laị thường tìm về những mái chùa Việt, nhất là những ngày lễ hoặc ngày tết.
Mọi người tìm về mái chùa để không chỉ lễ Phật mà tìm chút hơi ấm và hình bóng
quê hương. Thi sĩ- nhà sư Huyền Không đã viết:
Mái
chùa che chở hồn dân tộc
Nếp
sống muôn đời của tổ tông
Đạo
Phật đã ăn sâu vào văn hoá và lối sống của người Việt Nam. Người ra đi mang
theo cả hai trong tâm tưởng mình, làm sao mà có thể tách rời hình bóng quê
hương với mái chùa được? nói đến quê hương không thể không nhắc đến đồng lúa,
dòng sông, con đò, góc phố… dĩ nhiên càng không thể không nhắc đến mái chùa, dù
là chùa làng hay chùa nơi phồn hoa phố hội. Người sống đến chùa lễ Phật cầu an,
nương tựa tinh thần. Người chết gởi nắm tro tàn xương cốt, ngày đêm nghe kinh
hưởng hương khói. Sống hay chết cả đời cũng gắn bó với chùa, thậm chí nếu còn
tái sanh trở laị kiếp người thì chắc vẫn gắn bó với chùa.
Em
về trẩy hội xuân
Hoa
đào rực rỡ
Thấp
thoáng má hồng
Như
ngàn năm cổ tích tự phương Đông
( thơ TLTP)
Người ly hương viễn xứ, lòng canh cánh
nhớ thương nhất là khi mỗi độ xuân về. Mùa xuân cũng là lúc sum họp gia đình, bạn
bè… Mùa xuân về lòng khắc khoải lắm nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện để
về thăm. Mùa xuân với hoa mai, hoa đào như gợi laị dĩ vãng của phương Đông.
Mùa
xuân son sắt vĩnh hằng
Năm
rồi năm vẫn đãi đằng đôi nơi
Mình
xa góc bể chân trời
Nhớ
mùa xuân nhắn một lời nước non
( thơ TLTP)
Người
ra đi lòng vẫn nhớ, con tim chia hai nửa mang theo nửa để laị quê nhà. Phần nhiều
ai cũng nhớ quê hương, với những gã du tử thì càng tha thiết biết bao. Những gã
du tử mang nghiệp chữ lòng mang mang viết nên những bài thơ, áng văn dâng cho đời.
Mùa xuân về nước non cố quận mình tưng bừng trẩy hội, cho dù có nhiều hư hao và
dang dở. Nước non dù còn nhiều nguy hiểm tồn vong, đời dù lắm dâu bể đổi thay,
lòng người dù đa đoan… nhưng tình vẫn tha thiết lắm em ơi! bởi vậy mà:
Mùa xuân cố quận tưng bừng
Mặc đời dâu bể chưa từng hư hao
( thơ TLTP)
Ất Lăng thành, xuân Canh Tý
Những thứ này xuất phát từ
đâu, có gì lạ, có gì hay?
Mời bạn xem qua.
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà
thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới
khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài
Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà
truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc
Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ
thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới
tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi. Và nhiều nữa. Bây
giờ California chớm lạnh rồi, hẳn là Miền Đông đang lạnh gay gắt.
Do vậy, mỗi lần mở ra xem tuyển tập các sáng tác thơ, văn, họa của các văn
nghệ sĩ đang ở bên dòng sông Potomac, nơi giáp biên thủ đô và hai tiểu bang
Virginia, Maryland, những trận mưa tuyết lại rơi rất nhẹ bao phủ bầu trời ký ức.
Những hàng cây hoa anh đào đứng kiên nhẫn ở thù đô.
"Viết bên dòng Potomac" là tên một tuyển tập văn học đặc biệt gồm 2 tập, tập hợp các tác phẩm của 86 tác giả người Việt định cư tại vùng lân cận và thủ đô Washington D.C. (quanh dòng sông Potomac, Hoa Kỳ), kỷ niệm 50 năm người Việt hải ngoại (1975-2025), thể hiện sự đa dạng về hoàn cảnh và nghiệp văn của cộng đồng người Việt tại đây. Sách đang lưu hành ở mạng Lulu.
Có một bài thơ trong tuyển tập mà tôi đã đọc nhiều thập niên, và bây giờ thỉnh
thoảng vẫn mở ra đọc lại. Đó là bài "Trời Mưa Đi Phát Báo" của Giang
Hữu Tuyên (1949-2004), người có thân hình không được khắc khổ gầy gò như chúng
ta thường thấy ở nhiều nhà thơ ở quê nhà. Anh Giang Hữu Tuyên và nhà báo Ngô
Vương Toại (1947-2014) có nhiều năm đi bên nhau sát cánh, để giúp Giáo sư Nguyễn
Ngọc Bích trong nhiều sinh hoạt văn nghệ, cộng đồng, và dĩ nhiên, đòi hỏi nhân
quyền cho đồng bào quê nhà. Bây giờ tôi đã vào tuổi cổ lai hy được vài năm, với
mắt đã lòa và tai đã lãng, vẫn luôn luôn kinh ngạc khi nhớ rằng những người cực
kỳ thơ mộng như hai anh Tuyên và Toại lại không ở lâu trong cõi đời này. Giang
Hữu Tuyên ra đi năm 55 tuổi, anh Toại ra đi năm 67 tuổi.
Anh Giang Hữu Tuyên ưa đọc thơ cho "hậu bối" (là tôi) khi có dịp.
Anh Tuyên thường có những cao hứng như thế. Tôi còn nhớ mấy dòng trong bài thơ
“Về giòng sông Trẹm” anh Giang Hữu Tuyên ưa đọc:
Thơ anh rất buồn. Khi nhắc tới hai anh Tuyên và Toại, tôi luôn luôn nhớ tới GS Nguyễn Ngọc Bích, người có nhiều năm giữ chức Giám Đốc Đải RFA và từ trần trên một chuyến bay sang nước Úc. Ra đi ngay trên bầu trời, giữa các vầng mây. Có phải các cõi trời chờ sẵn trên mây để đón giáo sư Bích? Những buổi sinh hoạt dù văn nghệ hay cộng đồng của các anh Bích-Tuyên-Toại gần như luôn luôn có mặt nhà giáo Nguyễn Văn Khanh (về sau, là nhà truyền thông của Đài RFA và bây giờ là bình luận gia của báo Người Việt), nhà khoa học Trương Hồng Sơn (người nhiều năm sau nổi tiếng như một nhà văn và họa sĩ Trương Vũ), nhà thơ Trương Anh Thụy (người có văn phong thơ rất mực cổ kính), đôi khi có mặt nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Bình.
Ký ức những trận mưa tuyết Virginia trong tôi cũng hiện ra họa sĩ Ngọc
Dũng, người không có mặt nhiều với cộng đồng vì bận công việc trong tòa soạn
báo Mỹ; rồi mơ hồ nhớ tới nhà báo Lê Thiệp khi anh tới Miền Đông mở tiệm phở...
Tuyệt vời thơ mộng ở Miền Đông cũng là nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, nhạc sĩ Hoàng
Xuân Giang, nhà văn Hồ Đình Nghiêm... khi tôi lái xe qua thăm bạn học là nhà
thơ Lưu Nguyễn. Và những buổi lang thang hiếm hoi ở New York với họa sĩ Nguyễn
Quỳnh, người khi sang Mỹ đi học lại và lấy 2 bằng Tiến sĩ (mà một chuyên ngành
rất phức tạp, hình như là triết học về mỹ thuật, buộc phải học thêm tiếng Đức...)
và bây giờ anh Quỳnh đã về dạy ở một đại học San Antonio (Texas) từ lâu. Tôi
còn nhớ một lần bị cảnh sát ghi giấy phạt vì đậu xe ẩu dưới khu chung cư anh Quỳnh.
Nơi đây, nhân dịp cuối năm, xin trích đăng một số bài thơ trong tuyển tập "Viết bên dòng Potomac" để cho tròn 50 năm Miền Nam sụp đổ. Lựa chọn phần lớn sẽ là tình cờ. Sẽ xen kẽ với vài tranh chụp lại từ Tuyển Tập..
.... o ....
-- HOÀNG HẢI THỦY (1933-2020) (VBDP 1, tr. 167)
Bài thơ dưới đây của Đinh Cường.
ĐOẠN GHI SAU NGÀY TUYẾT BẤT NGỜ
Tuyển tập Viết Bên Dòng Potomac Tập I & Tập II hiện đã lưu hành trên mạng.
Tìm mua sách, xin vào: